Trang

【Bác sĩ Aibôlít】 ● Chương 3: Bác sĩ và tên cướp biển

Bác sĩ Ai-bô-lít chờ đón vị khách mới.
Ven biển có rất nhiều đá. Những mỏm đá to tướng và nhọn hoắt. Nếu con tàu nào va phải chúng sẽ bị tan ra từng mảnh. Vào những đêm thu mịt mùng, tàu bè phải ghé vào bờ biển tối tăm, đầy những mỏm đá lởm chởm và nguy hiểm đó, thật khủng khiếp. Người ta dựng những tháp đèn bên bờ biển để những con tàu khỏi vỡ tung vì đâm vào đá. Đèn biển là một ngọn tháp cao, trên đỉnh tháp có những ngọn đèn cháy sáng. Ngọn đèn sáng đến nỗi từ rất xa, các thuyền trưởng đã nhìn rõ và vì vậy, họ không thể lạc đường. Đèn biển ạoi sáng biển cả và chỉ đường cho tàu bè qua lại. ở thành phố Pin-đe-môn-te, nơi bác sĩ Ai-bô-lít đang sống, trên một ngọn núi cao cũng có ngọn đèn biển như thế. Thành phố Pin-đe-môn-te được xây dựng ngay bên bờ biển. Từ biển vào, có ba vách đá án ngữ, và thật bất hạnh cho con tàu nào va vào chúng: tàu sẽ vỡ tan ra từng mảnh và tất cả những người trên tàu sẽ bị nhấn chìm xuống đáy biển. Do vậy, nếu các bạn muốn ghé tàu vào Pin-đe-môn-te, chớ nên quên nhìn vào ngọn đèn biển. Từ rất xa đã nhìn rõ ngọn đèn trên tháp. Cứ đêm đêm, bác da đen già tên là Giam-bô, người gác đèn biển lại thắp sáng ngọn đèn này. Bác Giam-bô sống trên tháp đèn đã nhiều năm. Bác đã già, tóc bạc, nhưng vui tính và phúc hậu. Bác sĩ Ai-bô-lít rất yêu mến bác. Một lần, bác sĩ Ai-bô-lít bơi thuyền đến cây đèn, tìm gặp bác Giam-bô.
-Chào bác Giam-bô!
-Bác sĩ Ai-bô-lít nói.
-Tôi đến đây có việc muốn nhờ bác. Hôm nay, bác làm ơn thắp ngọn đèn sáng nhất trên tháp để trên biển sáng hơn. Hôm nay, bác thủy thủ Rô-bin-xơn sẽ cập bến thăm tôi, tôi muốn rằng con tàu của ông ta không bị vỡ vụn vì đâm vào vách đá.
-Được rồi,
-bác Giam-bô nói,
-tôi sẽ hết sức cố gắng. Bác thủy thủ Rô-bin-xơn từ đâu đến đây với bác?
-Bác ấy từ châu Phi mang về cho tôi con Đích hai đầu bé bỏng.
-Con Đích à? Đích nào vậy? Có phải Đích là con của con Kéo Đẩy nhà bác không?
-Đúng, chính Đích là con của nó. Con vật còn rất bé. Lâu nay, con Kéo Đẩy rất buồn vì thiếu Đích, và tôi đã nhờ bác Rô-bin-xơn sang châu Phi để mang nó về đây đấy.
-Thế thì con Kéo Đẩy của bác hẳn là mừng lắm!
-Tất nhiên rồi! Suốt mười một tháng nay nó không được thấy Đích. Nó đã chuẩn bị cho con Đích cả đống quà, nào là bánh mật ong, nho khô, nào là cam, hạt dẻ, hồ đào, kẹo và hôm nay, từ sáng sớm, nó đã chạy đi chạy lại trên bờ, cả bốn mắt đều hướng ra biển. Nó nóng lòng chờ đợi giây phút bóng dáng con tàu quen thuộc xuất hiện phía chân trời. Đêm nay, Rô-bin-xơn sẽ về tới nơi. Chỉ cầu mong cho con tàu của ông ta không vỡ tung vì đâm vào vách đá!
-Bác đừng quá lo lắng, cứ yên tâm!
-Bác Giam-bô nói.
-Không chỉ một hoặc hai ngọn đèn, mà tôi sẽ đốt cả bốn ngọn trên tháp đèn! Tất cả sẽ sáng như ban ngày. Rô-bin-xơn sẽ nhìn rõ đường để lái tàu và con tàu sẽ bình yên vô sự.
-Xin cám ơn bác Giam-bô!
-Nói rồi, bác sĩ Ai-bô-lít bơi thuyền về nhà. Đèn biển Về đến nhà, bác sĩ Ai-bô-lít bắt tay ngay vào công việc. Hôm đó, bác rất nhiều việc. Những chú thỏ, dơi, cừu, chim ác là, lạc đà ở rất xa, con thì đi, con thì bay đến nhờ bác sĩ chữa bệnh. Con này đau bụng, con kia đau răng. Bác sĩ đã chữa khỏi cho tất cả và chúng ra về rất vui vẻ. Buổi tối, bác sĩ nằm nghỉ trên đi-văng và thiu thiu ngủ, trong mơ, bác thấy gấu trắng, sư tử biển và hải cẩu. Bỗng một chú hải âu bay vào cửa sổ, đến bên bác và kêu to:
-Bác sĩ ơi! Bác sĩ! Bác sĩ choàng tỉnh dậy.
-Cái gì vậy?
-Bác hỏi.
-Chuyện gì xảy ra thế?
-Tri-cu-ru-tri-da-rôm! Tiếng muông thú có nghĩa là: "Ngoài kia... trên đèn biển không có ánh sáng!"
-Cháu nói sao?
-Bác sĩ kêu lên.
-Vâng ạ, trên đèn không thấy có ánh sáng! Đèn biển tắt ngấm và tối om! Điều gì sẽ xảy ra với những con tàu đang tiến vào bờ hở bác? Chúng sẽ bị vỡ tung vì đâm vào đá mất thôi!
-Thế bác gác đèn đâu?
-Bác sĩ hỏi.
-Bác Giam-bô đâu? Tại sao bác ấy không châm đèn?
-I-u-an-dê! I-u-an-dê!
-Hải âu trả lời.
-Cháu không biết ạ! Cháu không biết ạ! Cháu chỉ biết trên tháp đèn không có lửa thôi.
-Đến cây đèn mau!
-Bác sĩ quát to.
-Nhanh lên! Nhanh lên! Phải bằng mọi cách thắp cho được ngọn đèn sáng nhất trên tháp đèn! Nếu không sẽ có nhiều tàu đâm vào đá, vỡ tan tành trong đêm tối bão bùng này! Tàu của bác Rô-bin-xơn sẽ ra sao? Số phận con Đích sẽ thế nào? Bác sĩ chạy đến con thuyền của mình, vớ lấy mái chèo và cố hết sức bơi về phía cây đèn, đến đó còn khá xa. Con thuyền chao đảo trên những đợt sóng, mỗi phút nó đều có thể bị vỡ tung và chìm sâu xuống biển. Mặt biển đen ngòm và khủng khiếp. Nhưng bác sĩ Ai-bô-lít không sợ gì hết. Bác chỉ nghĩ làm sao đến được cây đèn biển càng nhanh càng tốt.
Bỗng vịt Ki-ca bay ngang qua và từ xa đã gọi to:
-Bác sĩ ơi! Bác sĩ! Cháu vừa nhìn thấy con tàu của bác thủy thủ Rô-bin-xơn trên biển. Con tàu giương hết các cánh buồm và đang lao như bay vào các vách đá. Nếu trên đèn biển không có ánh sáng, con tàu sẽ bị vỡ tan và mọi người sẽ bị chết chìm dưới biển.
-ôi, sự bất hạnh khủng khiếp quá!
-Bác sĩ kêu lên.
-Con tàu đáng thương, thật đáng thương! Nhưng không, chúng ta nhất định không để con tàu bị tiêu tan được! Chúng ta sẽ cứu nó! Chúng ta sẽ đốt lửa trên tháp đèn! Bác sĩ nhấn mạnh mái chèo, con thuyền vun vút lao về phía trước. Chú vịt bơi theo sau thuyền. Bỗng bác sĩ gọi rất to:
-I-gu-lút! I-ga-lếch! Ca-ta-la-ki! Tiếng muông thú có nghĩa là: "Hải âu! Hải âu! Cháu hãy bay ngay đến con tàu và cố gắng ghìm nó lại để nó khỏi lao nhanh như thế. Nếu không, ngay bây giờ, nó sẽ đâm vào vách đá, vỡ tung!"
-Can-da-lô-ma!
-Hải âu trả lời rồi lao vút ra biển mênh mông và bắt đầu gọi các bạn mình. Nghe thấy những tiếng kêu báo động của hải âu, bè bạn xa gần từ các nơi bay đến. Cả đàn liền bay đón đầu con tàu. Con tàu đang lao nhanh trên những đợt sóng. Tất cả tối đen như mực. Trong bóng tối mịt mùng đó, người lái tàu không nhìn thấy gì hết và cũng không đoán biết rằng ông đang đưa con tàu lao thẳng vào vách đá. ông bình thản đứng sau tay lái, miệng huýt sáo vang một bài hát vui. Trên chiếc cầu nhỏ cách đấy không xa, chú Đích bé nhỏ đang nhảy nhót và reo to:
-Ta sẽ được thấy bố ngay bây giờ! Bố sẽ cho ta chén bánh mật ong ngon tuyệt! Ba vách đá dựng đứng đã ở rất gần. Nếu như bác lái biết mình đang lái con tàu đi đâu, chắc chắn bác sẽ quay lái, và con tàu sẽ được cứu thoát.
Nhưng trong bóng tối dày đặc, bác lái tàu không nhìn thấy ba vách đá và đang đưa con tàu đến tai nạn không sao tránh khỏi. Bỗng một đàn hải âu đông nghịt lao thẳng vào người lái, chúng dùng những chiếc cánh dài đánh vào mặt, vào mắt bác. Chúng mổ vào hai tay bác và cả đàn tìm mọi cách đuổi bác ra khỏi tay lái. Bác lái tàu không biết rằng đàn hải âu muốn cứu con tàu, bác nghĩ chúng tấn công như những kẻ thù và bác kêu to:
-Cứu tôi với! Các thủy thủ nghe thấy tiếng kêu cứu của bác liền chạy lại và đánh đuổi đàn hải âu. Bác Giam-bô T rong khi đó, bác sĩ Ai-bô-lít vẫn mải miết chèo thuyền lao về phía trước. Cây đèn biển đây rồi. Mặc dù nó đứng trên đỉnh núi cao, nhưng bây giờ không nhìn thấy gì hết vì xung quanh là bóng tối mịt mùng. Bác sĩ leo lên núi và lần mở cửa vào cây đèn. Cánh cửa bị khóa chặt. Bác sĩ đập cửa, vẫn không động tĩnh, chẳng có ai mở cửa. Bác sĩ gào to:
-Bác Giam-bô, mở cửa mau lên! Không có ai trả lời. Làm thế nào bây giờ? Trời ơi! Phải làm sao đây? Còn con tàu cứ mỗi lúc một tiến gần bờ
-chỉ ít phút nữa, nó sẽ tan tành mây khói trước những mỏm đá gớm ghiếc kia. Không thể chậm trễ được. Bác sĩ lấy hết sức, dùng vai lao vào cửa. Cánh cửa bị bật tung, bác sĩ lao vào trong cây đèn, chú vịt Ki-ca lạch bạch chạy theo sau. Trên tàu, các thủy thủ tiếp tục chống chọi với đàn hải âu. Đàn hải âu cố ghìm con tàu lại càng lâu càng tốt, há vọng bác sĩ đủ thời gian đến được cây đèn biển. Chúng sẽ vui sướng biết bao vì đã ghìm được con tàu, mong sao bác sĩ đến cây đèn kịp và thắp lên những ngọn đèn sáng rực. Nhưng khi đàn hải âu vừa bay đi, con tàu lại chạy tiếp.
Sóng biển đưa con tàu vun vút lao thẳng vào những vách đá dựng đứng. Tại sao bác sĩ lại không đốt lửa lên nhỉ? Trong khi đó, bác sĩ Ai-bô-lít đang khẩn trương lần theo cầu thang xoáy trôn ốc lên đỉnh tháp đèn. Trong tháp tối như bưng, bác phải dò từng bước. Bỗng bác vấp phải vật gì to tướng, suýt nữa bác bị ngã lộn nhào. Cái gì thế nhỉ? Bao dưa chuột chăng? Hay cái hòm? Chẳng lẽ lại là người? Đúng rồi, một người nằm dài trên cầu thang, hai tay dang rộng. Nhất định đây là bác gác đèn biển Giam-bô rồi.
-Bác Giam-bô phải không?
-Bác sĩ hỏi. Người nằm đó không trả lời. Bác ta chết rồi chăng? Có thể bọn cướp biển đã giết bác? Hay cũng có thể bác ta bị ốm? Hay say rượu? Bác sĩ muốn ghé tai sát người bác Giam-bô xem tim ông còn đập không, nhưng nhớ đến con tàu nên bác lại lao theo cầu thang. Phải thật nhanh! Nhanh hơn nữa! Châm đèn lên cứu lấy con tàu! Mỗi lúc, bác sĩ chạy một cao hơn, cao hơn, cao hơn nữa! Ngã nhào, nhỏm dậy rồi lại chạy tiếp. Chiếc cầu thang mới dài làm sao! Bác sĩ thấy chóng mặt, đầu óc quay cuồng. Nhưng cuối cùng, bác sĩ đã lên được đỉnh tháp, nơi có những ngọn đèn. Bây giờ, bác chỉ còn châm đèn. Ngọn đèn sẽ sáng rực trên mặt biển và con tàu sẽ được cứu thoát. Bỗng bác sĩ kêu thất thanh:
-Thôi chết rồi! Làm sao bây giờ? Tôi quên mất diêm rồi! Trời ơi!
-Bác không có diêm ạ?
-Vịt Ki-ca kinh ngạc hỏi.
-Không có diêm bác làm sao châm lửa trên tháp đèn được?
-Bác quên mất diêm ở trên bàn rồi cháu ạ,
-bác sĩ rên rỉ và òa khóc một cách cay đắng.
-Có nghĩa là con tàu sẽ bị tiêu tan!
-Vịt thốt lên,
-ôi! Con tàu đáng thương, đáng thương quá!
-Không, không! Chúng ta sẽ cứu được tàu! Vì ở đây, trong cây đèn này có diêm! Chúng ta nhất định tìm được diêm!
-ở đây tối quá bác ạ,
-vịt nói,
-chúng ta sẽ chẳng tìm được gì đâu!
-Có một người đang nằm trên cầu thang đấy!
-Bác sĩ nói.
-Cháu hãy chạy lại tìm trong túi ông ta xem nhé! Vịt chạy đến chỗ người đang nằm, lục tìm tất cả các túi áo, túi quần của ông ta.
-Không có bác ạ!
-Vịt kêu to.
-Tất cả các túi của ông ta đều không có gì hết!
-Làm thế nào bây giờ?
-Bác sĩ đáng thương lẩm bẩm.
-Không có lẽ con tàu lớn như vậy với tất cả các thủy thủ trên đó lại phải chết trong khoảnh khắc chỉ vì ta không có một que diêm nhỏ hay sao? Chim yến Bỗng nhiên, bác sĩ Ai-bô-lít nghe thấy những âm thanh gì đó. Hình như đâu đây có tiếng chim rúc rích.
-Chim yến đấy!
-Bác sĩ nói.
-Cháu có nghe thấy không? Đó là tiếng hót của chim yến. Nào, ta đi tìm chim yến, hẳn nó biết diêm ở đâu. Bác sĩ lần cầu thang đi xuống, tìm buồng ở của bác Giam-bô nằm dưới tầng hầm. Bác sĩ chạy lại phía buồng và gọi to:
-Kin-dô-lốc? Tiếng muông thú có nghĩa là: "Diêm ở đâu? Chim yến ơi, diêm ở đâu?"
-Trích-tri-rích!
-Chim yến nói.
-Trích-tri-rích! Trích-tri-rích! Bác làm ơn lấy khăn phủ lên lồng hộ cháu với, ở đây gió lùa mạnh quY mà cháu mảnh khảnh thế này, cháu rất sợ bị cảm lạnh. Trời ơi, cháu sẽ bị sổ mũi mất. Không biết bác da đen Giam-bô đi đâu? Chiều nào bác ấy cũng lấy khăn phủ lên lồng cho cháu, nhưng bữa nay sao bác ấy lại quên cơ chứ. Đấy, ông già Giam-bô chẳng tốt bụng chút nào. Cháu có thể bị cảm lạnh. Chiếc khăn trên tủ ngăn đằng kia bác ạ! Chiếc khăn len xanh ấy mà.
-Diêm! Diêm! Diêm đâu?
-Bác sĩ quát to.
-Diêm ở trên bàn cạnh cửa sổ nhỏ đấy bác ạ. Nhưng sao gió lùa khiếp quá! Cháu gầy gò thế này khéo bị cảm lạnh mất. Bác làm ơn lấy khăn phủ hộ cháu với... Khăn ở trên... Nhưng bác sĩ Ai-bô-lít không còn bụng dạ nào để nghe chim yến nữa. Bác vớ lấy bao diêm và lại lao ngược lên cầu thang. Vịt Ki-ca vẫn chạy lạch bạch theo ông. Trên cầu thang, bác sĩ gặp chim hải âu vừa bay vào cửa sổ.
-Nhanh lên bác sĩ ơi! Nhanh lên!
-Hải âu kêu to.
-Chỉ phút chốc nữa là con tàu sẽ tan tành! Nó đang lao thẳng vào những tảng đá lớn khủng khiếp và chúng cháu không sao ghìm nổi được nữa. Tên cướp biển Bê-na-lít tẩu thoát Nghe hải âu nói, bác sĩ im lặng. Bác lại chạy và chạy tiếp lên cầu thang. Từ xa vọng đến tai bác những tiếng kêu rất thê thảm. Đó là tiếng khóc than của con Kéo Đẩy trên bờ biển. Rõ ràng, nó không còn há vọng gặp được con Đích bé bỏng của mình. Bác lên cao, lên cao, cao nữa và cuối cùng bác lại lên đến đỉnh tháp. Bác lao nhanh vào phòng kính, rút một que diêm và bằng hai bàn tay run rẩy châm bùng ngọn đèn to tướng. Sau đó, bác châm ngọn thứ hai, thứ ba, rồi thứ tư. Luồng ánh sáng chói rực bỗng chốc ạoi rõ những mỏm đá to, nhọn hoắt mà con tàu đang băng băng lao tới. Trên tàu bỗng vang lên tiếng kêu lớn:
-Vách đá! Vách đá! Lùi lại! Lùi lại! Chúng ta đang lao vào đá! Quay tàu lại nhanh lên! Trên tàu đã phát lệnh báo động: những tiếng huýt sáo, tiếng còi, tiếng chuông vang động, tiếng chân chạy huỳnh huỵch ngược xuôi của các thủy thủ, và mũi tàu nhanh chóng quay sang hướng khác, ra xa dần những vách đá và những mỏm đá khủng khiếp rồi từ từ đi vào cửa biển an toàn. Con tàu đã được cứu thoát. Nhưng bác sĩ Ai-bô-lít chưa nghĩ đến việc rời khỏi cây đèn ngay. Vì ở đó, trên cầu thang, còn bác da đen Giam-bô đang nằm bất tỉnh nhân sự, cần được sự giúp đỡ. Liệu bác ta còn sống hay đã chết? Chuyện gì đã xảy ra với bác ấy nhỉ? Tại sao bác ấy không thắp đèn? Bác sĩ cúi sát người bác da đen và nhìn thấy trên trán bác ta có một vết thương sâu hoắm.
-Bác Giam-bô! Bác Giam-bô!
-Bác sĩ lay gọi to, nhưng bác da đen vẫn nằm im, bất động. Bác sĩ rút trong túi ra một chai thuốc và đổ tất cả số thuốc đó vào mồm bác da đen. Thuốc có công hiệu ngay. Bác da đen từ từ mở mắt.
-Tôi ở đâu thế này? Tôi làm sao thế?
-Bác Giam-bô hỏi.
-Hãy đưa tôi lên thắp đèn nhanh lên! Tôi phải châm những ngọn đèn trên đó! -Bác cứ bình tâm đi!
-Bác sĩ nói.
-Đèn trên tháp đã cháy sáng. Chúng ta đi nào, tôi đưa bác về giường nằm nghỉ.
-Đèn biển đã cháy sáng rồi à? ại, tôi sung sướng quá!
-Bác Giam-bô thốt lên và vỗ tay hồ hởi
-Xin cảm ơn bác sĩ quý mến! Bác đã châm hộ tôi cây đèn! Bác đã cứu những con tàu khỏi bị vỡ. Và bây giờ, bác lại cứu tôi!
-Chuyện gì đã xảy ra với bác?
-Bác sĩ Ai-bô-lít hỏi.
-Tại sao bác lại không đốt đèn trên tháp?
-ôi, tai họa đã đến với tôi!
-Bác Giam-bô thở dài trả lời.
-Tôi đang đi lên cầu thang thì một người chạy đến, bác có biết ai không?
-Tên Bê-na-lít! Đúng! Đúng! Tên cướp biển mà bác đã buộc phải ạinh sống trên một hòn đảo hoang đấy.
-Tên Bê-na-lít?
-Bác sĩ thốt lên kinh ngạc.
-Chả lẽ y lại ở đây sao?
-Đúng, y đã vượt đảo hoang trên một con tàu nào đó, qua các biển và các đại dương, hôm qua đã về đến đây, đến thành phố Pin-đe-môn-te này.
-Về đây? Về Pin-đe-môn-te?
-Vâng, đúng như vậy! Y lập tức chạy đến cây đèn và dùng thanh tre đánh vào đầu tôi, chính vậy mà tôi ngã lăn trên những bậc thang, bất tỉnh.
-Thế tên cướp đó đâu rồi?
-Tôi không biết. Nhưng chim yến hót ríu rít:
-Bê-na-lít chạy đi rồi, chạy đi rồi, chạy đi rồi!
-Chim yến nhắc đi nhắc lại không ngớt.
-Cháu đã nhờ y lấy khăn che lồng cho cháu vì cháu sợ cảm lạnh. Sức cháu yếu ớt thế này. Nhưng y...
-Hắn chạy đi đâu?
-Bác sĩ quát lên.
-Hắn chạy vào núi theo con đường Ven-tu-ri ấy.
-Chim yến nói.
-Hắn muốn đốt nhà bác, giết hết những con thú của bác và cả bác nữa. Nhưng cháu cảm thấy sắp bị sổ mũi mất. Cháu mảnh mai thế này. Cháu không chịu được gió lùa. Mỗi lần... Nhưng bác sĩ không nghe hết lời chim yến. Bác lao đuổi theo tên cướp biển. Phải bằng mọi cách tìm cho được tên cướp biển gian ác đó và đưa nó trở lại đảo hoang, nếu không y sẽ đốt trụi cả thành phố và hành hạ, giết hết thú vật mất. Bác sĩ chạy hết tốc lực theo những đường phố, vượt qua những quảng trường, những ngã tư. Gió hất tung cả chiếc mũ trên đầu bác. Trong đêm tối, bác sĩ va phải hàng rào, ngã lộn xuống rãnh nước. Mặt mũi bác bị những cành cây cào nát, từ trên má, một dòng máu tuôn ra. Nhưng bác không để ý gì đến chúng mà vẫn tiếp tục chạy theo con đường Ven-tu-ri trải đá.
-Phải nhanh lên! Nhanh nữa! Sắp đến rồi, sau chỗ ngoặt kia là cái giếng quen thuộc, và qua đường, không xa cái giếng,
-ngôi nhà nhỏ bằng đá của bác sĩ Ai-bô-lít, trong đó, ngoài bác ra, còn có những con thú nữa. Phải nhanh lên, lao nhanh về phía đó. Bác sĩ Ai-bô-lít bị bắt Đột nhiên, một người lao đến bác Ai-bô-lít và giáng một đòn cực mạnh vào vai bác. Đó là tên cướp Bê-na-lít.
-Xin chào bác sĩ!
-Y nói và phá lên cười với một tiếng cười man rợ.
-Thế nào? ông không đợi gặp tôi ở thành phố này đấy chứ? Và cuối cùng ta phải thanh toán với nhà ngươi! Đôi mắt y long lên hung dữ, và y túm cổ bác sĩ Ai-bô-lít quăng xuống giếng sâu. Trong giếng rất lạnh và tối om. Bác sĩ suýt bị chết sặc vì nước.
-Tát-di-tét!
-Bác sĩ kêu to.
-Tát-di-tét! Nhưng chẳng ai nghe thấy tiếng bác. Làm sao bây giờ? Phải làm gì đây? Phải làm gì đây? Tên Bê-na-lít đốt nhà bác! Tất cả những con thú trong nhà sẽ cháy trụi
-cả Cá Sấu, khỉ Chi Chí, vẹt Ca-ru-đô, cả vịt Ki-ca và cú Bum-ba. Bác sĩ dồn tất cả sức lực còn lại và cố kêu thật to
-Tát-di-tét ! Tát-di-tét! Nhưng cả lần này cũng không ai nghe thấy bác. Còn tên cướp biển càng phá lên cười to hơn, khả ố hơn, rồi y lao về phía ngôi nhà của bác sĩ Ai-bô-lít. Tất cả những con thú
-cả to lẫn nhỏ
-đều ngủ rất say, từ xa đã nghe tiếng ngáy vô tư của chú Cá Sấu. Tên cướp, tay cầm bao diêm, nhẹ nhàng tiến đến sát ngôi nhà, y bật diêm và ngôi nhà bốc cháy.
-Cháy! Cháy! Tên Bê-na-lít cười khoái trá và bắt đầu thích thú nhảy múa xung quanh ngôi nhà đang cháy.
-Thế là cuối cùng ta đã trả được mối hận đời với lão bác sĩ đê tiện đó! Lão sẽ nhớ tên cướp biển Bê-na-lít này! Còn bác sĩ vẫn ngồi dưới giếng, nước ngập đến cổ, bác khóc và kêu cứu. Liệu cứ để tên cướp biển Bê-na-lít thiêu hết những người bạn đáng yêu của bác, còn bác suốt đời, suốt đời ngồi lỳ dưới cái giếng khủng khiếp này hay sao? Không, không thể thế được. Và bác sĩ lại kêu to:
-Tát-di-tét! Tát-di-tét! "Tát-di-tét!" tiếng muông thú có nghĩa là: "Cứu tôi với!". Chẳng ai nghe thấy tiếng kêu của bác. Bác sĩ lại gọi tiếp, gọi nữa, gọi mãi, nhưng tiếng kêu của bác lọt ra ngoài chỉ như tiếng rì rào nho nhỏ mà thôi. Thật may mắn, có một chú ếch xanh già sống trong giếng nhiều năm nay. ếch chui từ kẽ đá ẩm ướt ra, nhảy phốc lên vai bác sĩ và nói:
-Kính chào bác sĩ! Sao bác lại ở trong cái giếng này ạ?
-Bác bị tên cướp biển và cướp đường Bê-na-lít ném xuống đây. Bây giờ, bác cần phải ra khỏi nơi này. Cháu làm ơn chạy đi gọi giúp bác đàn sếu lại đây.
-Thôi, bác hãy ở lại đây!
-ếch nói.
-ở đây thật thú vị: vừa ẩm, vừa mát vừa ướt át nữa.
-Không, không !
-Bác sĩ nói.
-Bác cần chạy khỏi đây ngay bây giờ. Bác sợ nhà bị cháy sẽ thiêu hết những con thú đáng yêu mất!
-Có thể, đúng là bác không nên ở lại giếng.
-ếch nói rồi nhảy ra khỏi giếng, lao nhanh đến đầm lầy và gọi đàn sếu. Nỗi khổ mới và niềm vui mới Đàn sếu vội bay đến và mang theo một chiếc thừng dài. Chúng thả dây thừng xuống giếng. Bác sĩ nắm chặt dây, đàn sếu bay bổng lên mây và bác sĩ được kéo ra khỏi cái giếng sâu.
-Cám ơn, cám ơn, các bạn thân mến!
-Bác sĩ nói to với các chú sếu và chạy ngay về phía nhà mình. Ngôi nhà cháy rừng rực như một đống lửa lớn. Còn những con thú vẫn ngủ say, không mảy may biết rằng nhà chúng đang bị cháy. Ngọn lửa đang lan nhanh đến giường và chúng sẽ bị chết thiêu trong ngọn lửa
-những chú nhím, sóc, cú và cả cá sấu nữa. Bác sĩ lao thẳng vào ngọn lửa và gọi to những con thú:
-Dậy đi! Nhưng chúng vẫn ngủ ngon lành.
-Cháy! Cháy!
-Bác sĩ gào lên.
-Dậy, chạy ra đường mau! Nhưng giọng bác sĩ rất yếu ớt, bác đã bị cảm lạnh ở dưới giếng nên không ai nghe thấy bác gọi. Bác sĩ bị cháy hết tóc, chiếc áo vét của bác bị bén lửa, đôi má phồng rộp trong làn khói dày đặc đến nghẹt thở, nhưng bác vẫn tiếp tục lao sâu vào ngọn lửa rừng rực. Khỉ Chi-chí đây rồi. Nó ngủ say đến nỗi không hề cảm thấy ngọn lửa rát bỏng đang cháy quanh mình. Bác sĩ lao đến, lay thật mạnh vai khỉ với tất cả sức lực còn lại để đánh thức. Cuối cùng, khỉ mở mắt và trong cơn hốt hoảng, nó thét lên:
-Chúng ta bị cháy! Tất cả những con thú đã tỉnh giấc và lao nhanh ra khỏi ngọn lửa. Nhưng bác sĩ còn ở lại trong nhà. Bác muốn chạy vào phòng làm việc xem các chú thỏ hoặc chuột bạch có ở đó không. Bọn thú kêu lớn:
-Bác sĩ! Bác sĩ! Quay lại! Bác làm gì vậy? Râu bác đang cháy rồi. Bác chạy ra đi nếu không sẽ bị thiêu đấy!
-Bác chưa đi được!
-Bác sĩ trả lời.
-Bác chưa đi được! Bác nhớ trong tủ phòng làm việc của bác còn ba con thỏ con... phải cứu chúng ngay... Rồi bác sĩ lao thẳng vào ngọn lửa. Trong khoảnh khắc, bác đã có mặt tại phòng làm việc. Những chú thỏ con trong tủ đang khóc lóc vì hoảng sợ. Chúng không biết chạy đi đâu, xung quanh, chỗ nào cũng có lửa cháy. Các thứ trong phòng: rèm cửa, bàn, ghế, ghế đẩu đã cháy trụi. Bây giờ, lửa sẽ bén sang chiếc tủ to và cả lũ thỏ cùng bác sĩ sẽ bị thiêu sống.
-Các cháu thỏ, đừng sợ, có bác đây!
-Bác sĩ gọi to, rồi mở toang cánh tủ, ôm gọn những chú thỏ đang run sợ và lao ra khỏi ngọn lửa. Nhưng đầu bác quay cuồng, và bác ngã gục vào ngọn lửa, ngất đi.
-Bác sĩ! Bác sĩ! Bác sĩ ở đâu?
-Những con thú thét vang trên đường phố.
-Bác sĩ chết mất! Bác bị nghẹt thở vì khói! Bác bị thiêu rồi! Chúng ta sẽ không bao giờ được thấy bác ấy nữa! Phải cứu bác sĩ! Nhanh lên, nhanh lên các bạn ơi! Chó Gâu Gâu chạy lên trước tất cả các con thú, như cơn lốc lao vào phòng làm việc, ngoạm tay bác sĩ đang bất tỉnh và kéo xuống thang gác nghi ngút khói.
-Cẩn thận đấy, cẩn thận!
-Khỉ Chi-chí quát chó.
-Bạn có thể làm đứt tay bác sĩ mất. Nhưng bản thân khỉ vẫn đứng yên một chỗ. Chó Gâu Gâu tức giận trả lời:
-Hãy im đi, Chi-chí. Đừng gào lên như thế, Đừng dạy khôn tôi nhé, Chớ dạy đời, Chi-chí. Nghe vậy, khỉ Chi-chí rất xấu hổ liền chạy lại giúp chó. Hai con vật ráng sức kéo được bác sĩ ra vườn, tới bên rãnh nước, nhẹ nhàng đặt bác xuống đám cỏ dưới gốc cây tán rộng. Bác sĩ nằm đó, bất động. Những con thú rừng đứng vây xung quanh bác.
-Bác sĩ đáng thương!
-Lợn ủn ỉn nói và òa khóc.
-Chả lẽ bác chết và chúng ta mồ côi hay sao? Chúng ta sẽ sống thế nào khi không có bác sĩ? Bỗng bác sĩ cựa quậy và bắt đầu thở yếu ớt.
-Bác còn sống! Bác còn sống!
-Những con thú reo lên vui sướng.
-Những con thỏ có đây không?
-Bác sĩ hỏi.
-Chúng cháu đây ạ.
-Những chú thỏ con trả lời.
-Bác đừng lo cho tụi cháu. Chúng cháu khỏe lắm! Chúng cháu vui lắm! Bác sĩ ngồi nhỏm dậy trên cỏ.
-Bác phải đi gọi những người cứu hỏa.
-Bác sĩ thì thào nói. Đầu óc bác vẫn quay cuồng.
-Bác đừng làm gì nữa! Bác đừng làm gì nữa!
-Những con thú thốt lên.
-Mời bác nằm nghỉ và đừng cử động. Chúng cháu sẽ dập đám cháy không cần những người cứu hỏa bác ạ! Và đúng vậy, từ khắp các nơi, từng đàn én, quạ, hải âu, sếu, chim chìa vôi... bay tới, con nào trên mỏ cũng mang theo một xô nước nhỏ và chúng thi nhau dội xối xả xuống ngôi nhà đang cháy bỏng. Dường như đang có trận mưa lớn đổ xuống ngôi nhà. Chúng cứ thế thay nhau ra biển lấy từng xô nước đầy về dập tắt đám cháy. Từ trong rừng, chú gấu chạy đến, trên lưng cõng một thùng gỗ to tướng đầy nước, đổ thẳng vào ngọn lửa hung dữ, rồi lại chạy biến ra biển lấy nước. Các chú thỏ nhanh nhẹn lấy vòi cao su của nhà hàng xóm phun thẳng tia nước mạnh vào ngọn lửa đang bốc cao. Xì! Xì! Nhưng ngọn lửa vẫn không chịu tắt.
Lúc đó, từ vùng biển bắc xa xôi, ba chú cá voi khổng lồ bơi đến sát bờ Pin-đe-môn-te và phun lên ba cột nước lớn, lập tức toàn bộ đám cháy bị dập tắt. Bác sĩ đứng dậy và bắt đầu nhào lộn vì vui sướng. Chú chó Gâu Gâu chạy sau ông. Và sau chú chó Gâu Gâu là khỉ Chi-chí.
-Hoan hô! Hoan hô! Cám ơn các bạn chim chóc và muông thú, cám ơn các bạn cá voi hùng mạnh!
Con Đích
-Bác vui mừng thế thật vô ích,
-vẹt nói với bác sĩ và thở dài.
-Không thể ở trong nhà được nữa. Mái nhà đã cháy trụi, sàn và tường cũng cháy hết. Các thứ đồ gỗ cũng không còn, không còn bàn, ghế, cũng chẳng còn giường nữa.
-Đúng, đúng như vậy!
-Bác sĩ nói.
-Nhưng bác không đau khổ. Bác rất hạnh phúc vì tất cả các cháu đều còn sống và không cháu nào bị làm sao cả. Còn nếu ngôi nhà không còn ở được, thì đã sao, bác sẽ ra bờ biển tìm một cái hang và cùng sống ở đó với các cháu.
-Việc gì phải đi tìm hang hở bác?
-Chú gấu thốt lên.
-Xin mời tất cả đến hang gấu với cháu, ở đó, tối và ấm áp...
-Không, đến nhà tôi ở giếng hơn!
-ếch ngắt lời gấu.
-Dưới giếng ẩm, mát mẻ và ướt át.
-Trời ơi, tưởng đi đâu chứ mời xuống giếng!
-Chú cú già bực tức nói khi vừa từ rừng bay tới.
-Không, xin mời đến nhà tôi ở hốc cây. ở đó, tuy chật đôi chút, nhưng rất tiện.
-Xin cám ơn các bạn tốt bụng!
-Bác sĩ nói.
-Nhưng dù sao bác cũng muốn sống trong hang hơn!
-Sống trong hang! Sống trong hang!
-Cá Sấu kêu to và lao ngay theo con đường Ven-tu-ri. Theo sau Cá Sấu là vẹt Ca-ru-đô, cú Bum-ba, chó Gâu Gâu, khỉ Chi-chí và lợn ủn ỉn.
-Nào, chúng ta hãy đi tìm hang, tìm hang, tìm hang! Chẳng bao lâu, tất cả đã đến bờ biển, không xa hải cảng. Và họ nhìn thấy ai ở đấy? Tất nhiên đó là con Kéo Đẩy! Đúng, đúng... con Kéo Đẩy, nhưng nó không phải có một mình mà bên cạnh còn một con kéo đẩy nhỏ xíu, rất dễ thương, nhanh nhẹn, có bộ lông tơ rất mượt mà ai cũng muốn vuốt ve. Nó vừa về đến đây trên chiếc tàu của bác Rô-bin-xơn. Nhờ có ánh sáng của cây đèn, con tàu đã cập bến an toàn và con Đích đã khéo léo nhảy thẳng xuống bờ biển, lao ngay đến ôm chầm lấy bố. Con Kéo Đẩy bố rất đỗi vui mừng, vì hai bố con đã lâu lắm không được gặp nhau! Nhìn chúng ôm hôn nhau thật buồn cười. Kéo Đẩy hôn con trai hết đầu nọ đến đầu kia, hết bằng mõm này lại sang mõm khác, còn con Đích không bỏ phí thời gian, khi bố hôn mõm này thì nó dùng mõm kia nhai ngấu nghiến những chiếc bánh mật ong do bố nó mang đến. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, con Đích đã mê những con thú rồi. Chỉ chưa đầy năm phút sau, tất cả bọn thú đã cùng nó chạy tung tăng vào rừng và bắt đầu những trò chơi rất vui vẻ, chúng trèo lên cây, hái hoa và quả thông ném lên đầu nhau. Còn bác sĩ Ai-bô-lít và con Kéo Đẩy cùng với bác thủy thủ Rô-bin-xơn đi tìm một cái hang thật tốt. Những con thú chơi đùa rất lâu trong rừng. Bỗng chó Gâu Gâu nói với vịt Ki-ca:
-Hãy nhìn kìa Ki-ca, Bụi dâu tây chín đỏ Hái thật nhiều, Ki-ca, Để đãi mừng chú Đích! Vịt Ki-ca lập tức hái hết những quả dâu tây và tặng cho bạn mới của mình. Còn khỉ Chi-chí trèo lên cây cao, hái những trái hồ đào ném xuống:
-Này, cho chú mày đây. Đích, bắt lấy! Cả hai cái đầu của Đích lắc lư vui sướng và Đích dùng cả hai mồm bắt gọn những trái hồ đào. "Sao lại có những con vật tốt quY, tất cả các bạn ấy đều tốt!
-Con Đích tự nhủ.
-Mình phải sống hòa thuận hơn với họ". Đặc biệt, con Đích rất thích chú vẹt, vì vẹt biết hát và thổi sáo những bài hát thú vị nhất.
-Tên anh là gì?
-Con Đích hỏi. Vẹt hát trả lời Đích:
-Ta là Ca-ru-đô lừng danh, Hôm qua nuốt trửng một anh lạc đà! Con Đích nghe vậy, cười sặc sụa. Chú vẹt và Bê-na-lít Bỗng lúc đó, một con hải âu biển bay đến bên vẹt và kêu với giọng đầy lo âu:
-Bác sĩ đâu? Bác sĩ đâu? Chúng ta cần bác sĩ! Đi tìm bác sĩ mau lên!
-Có chuyện gì thế?
-Vẹt Ca-ru-đô hỏi.
-Tên cướp Bê-na-lít!...
-Hải âu trả lời.
-Kẻ độc ác khủng khiếp đấy...
-Bê-na-lít?
-Hắn đang bơi thuyền ngoài biển... Hắn muốn đánh cắp chiếc tàu của bác thủy thủ Rô-bin-xơn. Làm thế nào bây giờ? Hắn sẽ cướp tàu và trốn biệt ra khơi xa, và rồi sẽ lại cướp bóc, lại đánh đập và giết hại những người vô tội. Vẹt Ca-ru-đô suy nghĩ giây lát.
-Hắn sẽ không làm thế được đâu,
-vẹt nói.
-Chúng ta sẽ tự thanh toán với hắn... không cần có bác sĩ.
-Nhưng bạn có thể làm được gì nào?
-Hải âu thở dài hỏi.
-Liệu bạn có đủ sức mạnh để giữ tàu của hắn lại chăng?
-Đủ chứ! Đủ chứ!
-Vẹt vui vẻ nói và bay nhanh tới cây hải đăng. Trên cây đèn, như thường lệ, một chiếc đèn to sáng rực, ạoi rõ những tảng đá và vách đá ven bờ biển. Trên biển, từng đàn hải âu bay lượn.
-Các bạn hải âu ơi! Các bạn hải âu ơi!
-Vẹt gọi to.
-Các bạn hãy bay lại đây, đến cây đèn và lấy thân che kín ngọn đèn lại. Các bạn có nhìn thấy cái thuyền đang bơi gần các vách đá đó không! Trên chiếc thuyền đó là tên cướp biển Bê-na-lít đấy. Hãy che kín ánh sáng của cây đèn đi để hắn không nhìn thấy gì nữa hết!
Lập tức, những chú hải âu bay đến, quây kín xung quanh tháp đèn. Chúng đông đến nỗi ngọn đèn không còn lọt được chút ánh sáng nào ra ngoài. Bóng tối tràn ngập trên mặt biển. Lập tức, nghe rõ tiếng răng rắc! Rồi ầm một tiếng rợn người! Chiếc thuyền, trên đó có tên cướp Bê-na-lít va vào vách đá, vỡ tung.
-Cứu tôi với!
-Tên cướp biển gào lên.
-Cứu tôi với! Giúp tôi với! Tôi chết đuối mất!
-Thật đáng đời nhà mi!
-Ca-ru-đô đáp lại.
-Mi là tên cướp, mi là tên hung ác, tàn bạo! Mi đã đốt nhà chúng tao, và chúng tao chẳng thương tiếc mi. Mi định dìm chết bác sĩ Ai-bô-lít của chúng tao dưới giếng. Hãy tự dìm chết mình đi, và chẳng ai cứu giúp mi đâu! Chỗ ở mới Thế là tên cướp biển Bê-na-lít đã chết đuối. Từ nay, hắn không bao giờ cướp bóc được nữa. Những chú chim hải âu lập tức bay đi, ngọn đèn lại sáng rực.
-Bác sĩ đâu rồi?
-Khỉ Chi-chí hỏi.
-Tại sao không thấy bác? Đã đến lúc bác phải trở lại rồi.
-Bác sĩ kia rồi!
-Đích nói.
-Hãy nhìn về phía đường mà xem. Đúng là bác sĩ đang đi trên đường, nhưng sao bác lại buồn và mệt mỏi như vậy. Đích chạy lại với bác sĩ và liếm lên má bác, nhưng bác sĩ chẳng cười với nó.
-Bác rất buồn!
-Bác sĩ nói.
-Bác không tìm được cái hang nào hết. Tìm đi, tìm lại mà không đâu có hang cả.
-Chúng ta sẽ sống ở đâu?
-Bác cũng không biết! Không biết! Từ ngoài biển, những đám mây đen đang ùn ùn kéo tới. Sắp có cơn dông. Trời sẽ mưa to, mà chúng ta ở ngoài trời thế này, chẳng có chỗ nào để trú mưa bão.
-Tên Bê-na-lít đáng nguyền rủa!
-Khỉ Chi-chí thét to.
-Nếu nó không đốt nhà chúng ta, thì bây giờ, chúng ta đã ngồi trong nhà ấm cúng và chẳng sợ bão! Chẳng sợ mưa nữa! Tất cả thở dài nặng nề. Không ai nói câu nào cả. Mấy phút sau, tiếng sấm bắt đầu vang động bầu trời và mưa như trút nước. Bác sĩ với những con thú của mình cố gắng nép dưới gốc cây, nhưng mưa mỗi lúc một to, từng dòng nước mưa xuyên qua kẽ lá, cành cây, đổ xuống. Chân tay bác sĩ đã bắt đầu run lên, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Bác lảo đảo rồi ngã lăn xuống mặt đất lạnh và ướt sũng.
-Bác làm sao thế?
-Cú Bum-ba hỏi.
-Bác bị ốm... bác rét quY... bác bị cảm lạnh trong giếng... bây giờ, bác đang sốt đây. Nếu bác không được sưởi ấm trong chăn, bên bếp lò... bác sẽ chết mất... còn các cháu, những con thú đáng yêu của ta, sẽ sống trên đời không còn người bạn tốt nhất của mình.
-U-u-u!
-Cú Bum-ba rú lên.
-U-u-u!
-Chó Gâu Gâu tru tréo. Khỉ Chi-chí ôm lấy lợn ủn ỉn và cả hai cùng khóc, con Kéo Đẩy cũng ôm lấy con mà khóc. Bỗng chó Gâu Gâu rùng mình, vươn dài cổ và bắt đầu đánh hơi trong không khí.
-Có ai đó đi lại đây!
-Gâu Gâu nói.
-Không,
-vịt Ki-ca nói,
-Cậu nhầm đấy. Đó là mưa khuấy động các bụi lau ven bờ biển. Nhưng lúc đó, từ trong bụi rậm, có những con thú chạy tới, chúng cúi sát vào bác sĩ đồng thanh hát:
-Chúng cháu họ Hải Lá, Là thợ mộc, thợ nề, Đã xây xong cho bác, Bên dòng sông xanh mát, Trên bờ hồ lung linh, Ngôi nhà mới đẹp xinh!
-Ngôi nhà?
-Vịt Ki-ca ngạc nhiên hỏi.
-Các bạn biết xây nhà ư?
-Chứ sao!
-Bọn Hải Lá kiêu hãnh trả lời.
-Trong số tất cả các loài thú vật, chúng tôi là những thợ xây giỏi nhất thế giới. Chúng tôi xây những ngôi nhà mà con người không xây như thế. Vừa thấy nhà bác sĩ Ai-bô-lít bị cháy, chúng tôi liền chạy ra khỏi nhà, lao nhanh vào khu rừng gần nhất và cắt ba mươi cây cao vút.
-Ba mươi cây!
-Khỉ Chi-chí bật cười.
-Làm sao các cậu chặt được cây nếu các cậu không có rìu?
-Nhưng chúng tớ lại có những hàm răng rất tuyệt vời!
-Đúng, đúng!
-Cú Bum-ba nói.
-Có lý lắm. Họ nhà Hải Lá có những chiếc răng sắc tuyệt trần. Hải Lá cắt cây bằng răng, sau đó, bóc vỏ cây cũng bằng răng, rồi cắn cụt cành lá và dùng những cây gỗ đó xây nhà cho mình và cho con cháu.
-Và bây giờ, chúng tôi đã làm nhà cho bác sĩ tốt bụng của chúng ta!
-Bọn Hải Lá nói.
-ở đó ấm áp rộng rãi và tiện lợi. Bác sĩ ơi, dậy đi, chúng cháu sẽ đưa bác tới đó! Nhưng bác sĩ chỉ rên rỉ thay câu trả lời. Bác sĩ đang sốt cao nên không thể nói được. Những con thú nâng bác sĩ lên khỏi mặt đất ướt sũng, đặt bác lên lưng con Kéo Đẩy và vừa giữ chặt hai bên, chúng vừa đưa bác đến ngôi nhà mới. Bọn Hải Lá đi trước chỉ đường. Mưa như trút nước. Đã đến hồ và sông Bô-brô-vai-a. Còn trên bờ sông, hãy nhìn kìa, nhìn kìa
-ngôi nhà mới bằng gỗ tròn, cao ráo và mới tinh!
-Xin mời bác sĩ,
-bọn Hải Lá nói.
-Ngôi nhà này tốt hơn ngôi nhà cũ của bác. Bác sĩ xem kìa, ngôi nhà mới đẹp làm sao!
-Cám ơn, cám ơn!
-Bác sĩ Ai-bô-lít yếu ớt thều thào.
-Bác rất cám ơn các chú Hải Lá vì quà tặng tuyệt diệu này. Khỉ Chi-chí nhanh chóng châm bếp lò. Những con thú đặt bác sĩ Ai-bô-lít vào giường và cho bác uống thứ thuốc làm cho bác khỏi rất nhanh. Ngôi nhà quả là tuyệt trần. Ngày hôm sau, bác thủy thủ Rô-bin-xơn và bác gác đèn biển Giam-bô đến thăm bác sĩ. Họ mang đến cho bác sĩ nho và mật ong. Bác sĩ ngồi trên ghế bành cạnh bếp lò, tràn đầy hạnh phúc, nhưng trông bác vẫn còn xanh xao và yếu ớt. Những con thú quây quanh chân bác và nhìn vào mắt bác đang sáng lên vui vẻ. Chúng rất vui mừng vì bác còn sống và bệnh tình của bác đã giảm đi nhiều.
Con Đích xoắn xuýt bên bác, liếm liếm vào tay bác bằng hết đầu nọ đến đầu kia. Bác sĩ vuốt nhẹ bộ lông mượt mà của nó. Vẹt Ca-ru-đô trèo lên lưng ghế, và bắt đầu kể câu chuyện gì đó. Câu chuyện rất buồn thảm. Nghe vẹt kể, Cá Sấu òa khóc, những hạt nước mắt to tướng lã chã, tưởng như thành suối xung quanh nó. Nhưng kết thúc câu chuyện lại rất vui, đến nỗi bác Giam-bô, bác Rô-bin-xơn và khỉ Chi-chí vỗ tay vang dội và suýt nữa thì tất cả kéo nhau ra nhảy múa. Nhưng về câu chuyện đó hãy để sau. Còn bây giờ, chúng ta nghỉ ngơi đã. Gấp sách lại và cùng đi chơi nhé.
Phần thứ tư
Cuộc phiêu lưu của chuột trắng
Chú mèo
Có một cô bé chuột trắng tên là Be-li-an-ca. Tất cả anh, chị, em của Be-li-an-ca đều màu xám, chỉ riêng cô có bộ lông trắng muốt. Cô trắng như phấn, như giấy và như tuyết. Các chú chuột xám rủ nhau đi chơi. Be-li-an-ca cũng chạy theo các anh, chị mình, nhưng các chú chuột xám nói:
-Em phải ở nhà, không được đi. Trên nóc nhà có Mèo Đen, nó sẽ thấy em và ăn thịt đấy!
-Thế sao các anh chị đi chơi được mà em không được đi?
-Be-li-an-ca hỏi.
-Nếu Mèo Đen nhìn thấy em, thì cũng nhìn thấy các anh, chị chứ.
-Không,
-các chú chuột xám nói,
-Mèo Đen không thể nhìn thấy bọn anh, vì các anh, chị có màu xám, còn em trắng thế kia thì ai mà chẳng nhìn thấy. Nói đoạn, chúng ùa chạy đi chơi theo con đường đầy bụi. Thực tế, Mèo Đen không nhìn thấy chúng thật, vì chúng màu xám và bụi trên đường cũng màu xám. Còn Be-li-an-ca thì Mèo Đen nhận ra ngay vì cô màu trắng. Nhìn thấy Be-li-an-ca, Mèo Đen lập tức bổ đến, tóm gọn cô bằng những chiếc móng nhọn hoắt. ại, cô bé Be-li-an-ca đáng thương! Mèo Đen sẽ ăn thịt cô ngay bây giờ! Be-li-an-ca đã hiểu rằng các anh chị nói rất đúng, cô òa lên khóc một cách cay đắng.
-Thả tôi ra, thả tôi ra!
-Be-li-an-ca cầu khẩn. Nhưng Mèo Đen chỉ gừ gừ trả lời và nhe những chiếc răng gớm ghiếc dọa Be-li-an-ca. Giải thoát B ỗng có ai đó quát to:
-Tại sao mày giày vò con chuột đáng thương đó? Thả nó ra ngay! Đó là cậu Pen-ta, con trai người đánh cá. Pen-ta đã nhìn thấy Mèo Đen giữ Be-li-an-ca trong những chiếc móng sắc nhọn và cậu chạy ngay lại, lôi được cô chuột trắng thoát khỏi những chiếc móng mèo.
-Chuột trắng!
-Pen-ta reo lên.
-ôi, khoái thật, từ nay ta sẽ có một con chuột trắng tuyệt đẹp. Be-li-an-ca cũng rất vui sướng vì đã được cứu thoát khỏi nanh vuốt của Mèo Đen. Pen-ta cho cô ăn và nhốt cô vào một chiếc chuồng bằng gỗ tuyệt đẹp.
Pen-ta là cậu bé thật tốt bụng. Be-li-an-ca sống bên cậu thật thoải mái. Nhưng ai lại muốn sống trong chuồng bao giờ! Chiếc chuồng cũng giống như nhà tù. Chẳng bao lâu, cô bé Be-li-an-ca cảm thấy rất buồn chán trong chiếc chuồng đẹp này. Và vào một đêm nọ, khi Pen-ta đã ngủ say, Be-li-an-ca nhảy qua cửa chuồng và nhẹ nhàng chạy biến ra đường phố. Bác Chuột Cống già ại, thật là hạnh phúc! Tất cả đường phố đều trắng, đường phố đầy tuyết phủ! Nếu đường phố trắng, có nghĩa là cô bé chuột trắng Be-li-an-ca có thể yên tâm dạo chơi ngay trước mũi Mèo và Mèo không thể nhìn thấy cô được. Vì chuột trắng trên tuyết trắng sẽ chẳng ai nhìn thấy. Trên tuyết trắng, Be-li-an-ca cũng trắng như tuyết vậy. Be-li-an-ca thật vui khi dạo chơi thỏa thích trên các đường phố phủ đầy tuyết trắng và liếc nhìn những chú mèo và cả những chú chó. Không ai nhìn thấy Be-li-an-ca, còn cô thì nhìn rõ tất cả mọi người. Bỗng Be-li-an-ca nghe thấy tiếng rên rỉ. Ai rên thảm hại thế nhỉ? Be-li-an-ca nhìn vào bóng tối và thấy một bác chuột cống già ngồi ngay trước ngưỡng cửa nhà kho lớn và những giọt nước mắt rơi lã chã trên đôi gò má bác ta.
-Bác làm sao thế ạ?
-Be-li-an-ca hỏi.
-Sao bác lại khóc? Ai làm bác bực mình? Hay bác bị ốm ạ?
-Trời,
-Bác Chuột Cống trả lời,
-bác không bị ốm nhưng bất hạnh quY cháu ạ. Bác đói lắm rồi! Bác đang sắp chết đói đây. Đã ba ngày nay, bác chẳng có gì bỏ mồm cả. Bác sẽ chết đói mất!
-Thế sao bác lại chịu ngồi ở cái kho này?
-Be-li-an-ca thốt lên.
-Bác hãy đi ra ngoài đường và cháu sẽ chỉ cho bác một thùng rác, ở đó, bác có thể kiếm được những thứ ăn tuyệt vời.
-Không, không được,
-bác Chuột Cống già thều thào,
-bác không thể xuất hiện ngoài đường phố được. Thế cháu không nhìn thấy bác màu xám hay sao? Khi chưa có tuyết, tối nào bác cũng có thể rời khỏi sân. Còn bây giờ, trên tuyết trắng, mọi người sẽ nhìn thấy bác ngay, kể cả các cậu bé, những con chó và những con mèo. ại, sao bác muốn trắng như tuyết quá! Be-li-an-ca bắt đầu thấy thương hại bác Chuột Cống già khốn khổ quá.
-Bác có muốn cháu ở lại đây sống với bác không?
-Be-li-an-ca gợi ý.
-Tối tối, cháu sẽ mang thức ăn về cho bác. Bác Chuột Cống già rất vui sướng. Bác ta gầy đét và rụng hết răng. Be-li-an-ca chạy ngay đến hố rác nhà bên cạnh và mang về những miếng vỏ bánh mì, mẩu pho-mát và mẩu nến cháy dở. Bác Chuột Cống già nhai ngấu nghiến tất cả số thức ăn đó một cách ngon lành.
-ôi, cám ơn.
-Bác Chuột Cống nói.
-Nếu không có cháu thì chắc bác sẽ chết đói mất. Mưu trí của bác Chuột Cống già Thế là cô bé chuột trắng Be-li-an-ca đã sống với bác Chuột Cống già hết mùa đông. Nhưng một lần, Be-li-an-ca đi ra đường và suýt òa khóc: chỉ trong một đêm mà tuyết đã tan hết, mùa xuân đã về. Khắp nơi là những vũng nước, đường phố đen sẫm. Tất cả đều có thể nhìn thấy ngay Be-li-an-ca và đuổi bắt cô.
-Này cháu,
-bác Chuột Cống già nói với Be-li-an-ca,
-bây giờ đến lượt bác đi kiếm thức ăn về cho cháu. Cháu đã nuôi bác mùa đông, còn bác sẽ nuôi cháu mùa hè.
Nói rồi, bác Chuột Cống ra đi, và chỉ sau một tiếng đã mang về cho Be-li-an-ca cả một núi bánh mì sấy, những mẩu bánh mì hình số 8 và kẹo. Đúng lúc, khi mà bác Chuột Cống già đi kiếm thực phẩm, cô bé Be-li-an-ca ngồi ở cửa nhà kho, bỗng các anh, chị cô đi ngang qua.
-Các anh, chị đi đâu đấy?
-Be-li-an-ca hỏi.
-Bọn anh, chị đi vào rừng xanh để nhảy múa đây.
-Cho em đi với! Em cũng muốn nhảy múa!
-Không, không được!
-Các anh, chị cô quát lên.
-Hãy đi xa bọn anh, chị ra! Em sẽ giết chết các anh chị và cả mình nữa đấy. Trên cây trong rừng, có một con cú mèo to, nó sẽ nhận ra ngay bộ lông trắng của em trên nền cỏ xanh, và các anh chị sẽ chết cùng với em mất. Nói rồi, cả lũ chạy ùa đi, còn Be-li-an-ca ở lại một mình. Chẳng bao lâu, bác Chuột Cống già trở về. Bác mang về rất nhiều thức ngon, nhưng Be-li-an-ca thậm chí không hề đụng chạm đến các thức ăn ngon lành đó. Cô nấp vào góc tối và khóc thút thít.
-Sao cháu lại khóc?
-Bác Chuột Cống già hỏi cô.
-Làm sao cháu lại không khóc được?
-Be-li-an-ca trả lời.
-Các anh chị màu xám của cháu chạy chơi thỏa thích trong rừng và ngoài đồng, nhảy múa, nô đùa, còn cháu phải ngồi suốt mùa hè trong cái kho khốn kiếp này. Bác Chuột Cống già suy nghĩ.
-Be-li-an-ca, nếu cháu muốn, bác sẽ giúp cháu.
-Bác Chuột Cống âu yếm nói.
-Không ạ,
-Be-li-an-ca trả lời buồn bã,
-chẳng ai có thể giúp được cháu cả.
-ấy, cháu thấy không, bác có thể giúp được cháu đấy. Cháu có biết rằng trong tầng hầm dưới nhà kho của chúng ta là xưởng của bác thợ nhuộm không? Mà trong xưởng của ông ta có rất nhiều loại thuốc nhuộm. Xanh nước biển, xanh lá cây, màu da cam, màu hồng. Bác thợ nhuộm dùng các loại thuốc đó để nhuộm đồ chơi, những chiếc đèn lồng, những lá cờ, những ngôi sao bằng giấy để treo lên cây thông. Cháu hãy chạy ngay tới đó. Bác thợ nhuộm đi ra rồi, thuốc nhuộm còn ở trong xưởng.
-Nhưng chúng ta làm được gì ở đó ạ?
-Be-li-an-ca hỏi.
-Cháu hãy xem đây,
-bác Chuột Cống già trả lời. Cô bé Be-li-an-ca không hiểu gì hết. Cô miễn cưỡng đi theo bác Chuột Cống già vào xưởng của bác thợ nhuộm. ở đó, có những chiếc xô đựng các loại thuốc nhiều màu. Bác Chuột Cống nói với Be-li-an-ca:
-Trong chiếc xô này là thuốc màu xanh da trời, xô kia đựng thuốc màu xanh lá cây, trong xô này là thuốc màu đen, còn đây là màu đỏ thẫm. Riêng chiếc chậu kia đựng thuốc màu xám tuyệt vời. Cháu hãy lại đó, lặn ngập cả đầu xuống cháu sẽ có màu xám như các anh, chị của cháu đấy. Be-li-an-ca rất vui mừng, chạy ngay lại phía chậu. Nhưng bỗng cô dừng lại vì cô rất sợ.
-Cháu sợ chết đuối mất,
-cô bé chuột trắng nói.
-Đồ nhát gan! Có gì mà phải sợ! Nhắm mắt lại và lặn đi nhanh lên!
-Bác Chuột Cống già nói với cô. Be-li-an-ca nhắm mắt và nhảy vào chậu thuốc màu xám.
-Đó, tốt rồi!
-Bác Chuột Cống reo lên.
-Chúc mừng cháu nhé! Thế là cháu không còn màu trắng nữa, mà là xám rồi. Bây giờ, cháu phải sưởi ấm lên. Hãy nhanh chóng vào giường nằm đi. Sáng mai, khi tỉnh dậy, cháu sẽ rất hạnh phúc.
Màu thuốc tai hại ạ áng ra, Be-li-an-ca vừa tỉnh giấc đã vội chạy ngay ra đống rác ạoi mình vào những mảnh gương vỡ ở đó. ại, khủng khiếp quá! Cô đâu phải là màu xám, mà là màu vàng, vàng như hoa cúc, như lòng đỏ trứng, như chú gà con! Be-li-an-ca giận bác Chuột Cống già lắm.
-Thật là một bà già vô tích sự!
-Cô gào to.
-Bác nhìn xem, bác đã làm tôi thành cái gì thế này! Bác đã nhúng tôi vào chậu thuốc vàng, và bây giờ, trên đường phố, trông tôi chắc khủng khiếp lắm.
-Thực ra,
-bác Chuột Cống già kêu lên,
-trong bóng tối, bác đã bị nhầm màu. Bây giờ bác đã thấy rõ trong cái chậu đó không phải là màu xám, mà là màu vàng.
-Đúng là mụ già ngốc nghếch, đui mù! Bác giết tôi rồi!
-Cô bé Be-li-an-ca bất hạnh vẫn ti tỉ khóc.
-Tôi sẽ bỏ bác và không muốn nhìn thấy mặt bác nữa! Và cô bé bỏ đi. Nhưng cô đi đâu bây giờ? ẩn nấp ở đâu được? Cả trên con đường ẩm ướt, trên những thảm cỏ xanh và trên tuyết trắng
-khắp nơi, bộ lông vàng sáng của cô cứ như phô bày ra vậy. Be-li-an-ca vừa chạy ra khỏi nhà kho, lập tức chú Mèo Đen đã rượt theo. Cô chạy trốn vào ngõ hẻm thì một tốp học ạinh phát hiện ra ngay.
-Con chuột vàng!
-Tốp học ạinh reo lên.
-Con chuột vàng, vàng, đẹp quá! Và bọn trẻ ùa đuổi theo, dùng gạch, đá ném Be-li-an-ca. Đến góc phố, cả mấy chú chó cũng đuổi theo với lũ trẻ. Không một ai và chưa bao giờ nhìn thấy loài chuột vàng, nên ai cũng muốn tóm bằng được con chuột lạ lùng này.
-Bắt lấy! Bắt lấy nó!
-Bọn trẻ hò hét sau lưng Be-li-an-ca. Mệt mỏi, hốt hoảng, cô bé Be-li-an-ca suýt nữa bị tóm cổ. Nhưng ngôi nhà thân yêu của cô đây rồi. ở đây, có mẹ cô đang sống. Trong cái hang thân yêu này, cô sẽ lại sống bình yên.
-Chào mẹ!
-Cô nói. Bà mẹ nhìn cô rồi kêu lên một cách bực tức:
-Mày là ai? Cần gì? Ra khỏi đây đi!
-Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng xua đuổi con! Con là con gái của mẹ đây mà. Con Be-li-an-ca của mẹ đây.
-Be-li-an-ca sao lại có màu vàng như mày. Be-li-an-ca của tao còn trắng hơn cả tuyết cơ. Mày thì vàng như hoa cúc, như lòng đỏ trứng, như chú gà con. Tao không bao giờ có đứa con gái như vậy! Mày không phải là con gái tao. Đi khỏi đây ngay lập tức!
-Mẹ thân yêu, hãy tin đây là con mà. Con Be-li-an-ca bé bỏng của mẹ! Mẹ hãy nghe, con sẽ kể hết mọi chuyện đã xảy ra cho mẹ nghe. Nhưng lúc đó, các anh, chị cô đã chạy đến và họ bắt đầu đẩy cô ra khỏi hang. Chúng không sao đoán biết được đây chính lại là em gái chúng, nên đã cào cấu, cắn xé và đuổi cô đi.
-Cút ngay, mày từ đâu đến đây? Chúng tao không biết mày, mày là con nhà khác! Mày màu vàng, hoàn toàn không phải là Be-li-an-ca của chúng tao! Làm sao bây giờ? Cô bé Be-li-an-ca đáng thương đành lủi thủi ra khỏi hang với hai hàng nước mắt giàn giụa. Cô mò mẫm dọc các hàng rào, mỗi bước đi lại bị gai tầm ma cào cứa. Nhưng chẳng bao lâu, cô đã ra đến bờ biển:
-Phải nhanh chóng rửa sạch thứ thuốc màu vàng quái gở này mới được!
Cô bé Chuột Vàng và bác sĩ Ai-bô-lít Không chậm trễ một phút, cô nhảy ngay xuống nước, lặn ngụp, bơi đi bơi lại, cào cào vào bộ lông, lấy cát chà sát, nhưng vô hiệu, cái màu đáng nguyền rủa không rời khỏi cô. Bộ lông vẫn giữ nguyên màu vàng như cũ. Trong khi run lẩy bẩy vì lạnh, cô chuột nhỏ bất hạnh ướt sũng bò lên bờ, ngồi trên cát mà khóc nức nở. Cô làm gì bây giờ? Đi đâu được? Mặt trời sắp lên. Tất cả mọi người sẽ lại nhìn thấy cô và lại đuổi theo cô và sẽ lại dùng đất, đá ném cô tới tấp, và rồi lại quát thét: "Bắt lấy, tóm lấy nó!".
-Không, như thế mình không thể chịu được nữa. Hay tốt hơn cả là trở lại chiếc lồng mà bữa nào đó mình đã bỏ ra đi? Làm sao bây giờ, nếu như mình muốn sống mà không được, nếu như người mẹ thân yêu lại bực tức và đuổi mình đi? Và cúi đầu buồn thảm, Be-li-an-ca tiến dần về phía ngôi nhà, nơi mà cậu bé Pen-ta đang sống. Dọc đường, cô gặp một chú chuột kỳ quặc, rất gầy gò, ốm yếu, nhẩy cò cò từng bước. Nhưng trên đuôi nó buộc một cái nơ rất đẹp. Be-li-an-ca hỏi cô bạn:
-Này chị ơi, sao chị lại có cái nơ trên đuôi như vậy?
-Đấy không phải nơ đâu, mà là cái băng đấy,
-chị chuột lạ trả lời,
-chả là chị bị thương và đến bác sĩ Ai-bô-lít, bác sĩ băng cho chị như thế đấy. Em thấy không, hôm qua, chị rơi vào chiếc bẫy chuột và chiếc bẫy đã kẹp vào đuôi chị đau như vậy đấy. Chị giật mạnh, thoát khỏi được chiếc bẫy và chạy ngay đến bác sĩ. Bác sĩ đã bôi lên đuôi chị một thứ thuốc mỡ tuyệt vời nào đó và bây giờ không còn đau nữa. Rất cám ơn bác ấy. ại, một ông bác sĩ quý hóa và tốt bụng làm sao! Và em có biết không, bác ấy biết nói tiếng chuột: hiểu rất tốt ngôn ngữ của loài chuột.
-Bác sĩ sống ở đâu?
-Cô bé Chuột Vàng hỏi chị chuột không quen nọ.
-ở gần đây, trên quả đồi sau góc kia mà. ạ thế chẳng hóa ra em không biết bác sĩ Ai-bô-lít sống ở đâu à? Tất cả thú vật đều biết bác ấy: những chú chó, ngựa, thỏ, nhím... ốm đau đều đến nhờ bác sĩ chữa bệnh và bác chữa khỏi cho tất cả. Nhưng cô bé Chuột Vàng không đủ kiên nhẫn nghe hết những lời nói đó đã chạy biến đi. Cô chạy đến nhà bác sĩ, bấm chuông trên cửa. Chó Gâu Gâu ra mở cửa. Nhà bác sĩ rất đông bệnh nhân: một chú bé dê rừng nào đó, hai chú rùa, hải cẩu, chú gà trống bị băng ở cổ và chú quạ với chiếc cánh vừa được khâu lại. Khi cô bé chuột kể cho bác sĩ nghe rằng cô muốn trở lại trắng như xưa, bác sĩ cười và nói:
-Bác sẽ không chữa cho cháu đâu! Cứ giữ nguyên bộ lông vàng thế mãi mãi! Bác rất thích bộ lông vàng của cháu. Bộ lông vàng óng và đẹp biết bao!...
-Nhưng vì bộ lông này sẽ giết hại cháu!
-Cô bé chuột thốt lên trong nước mắt.
-Nếu cháu ra đường, lập tức đàn chó lại đuổi bắt cháu hoặc Mèo Đen sẽ vồ cháu ngay.
-Toàn chuyện nhảm nhí!
-Bác sĩ nói.
-Cháu sẽ sống với bác ở đây và sẽ chẳng ai đụng đến cháu. Cháu đi dạo trên các đường phố làm gì. Đây, cho cháu ngôi nhà nhỏ trong tủ chè ấy; ở đó có hai chú thỏ và một bác sóc rụng hết răng. ở với bác cháu sẽ rất thoải mái, và chúng ta sẽ gọi cháu là Phít-gia. Cái tên đó có nghĩa là: Chuột Vàng.
-Thôi được,
-cô bé nói,
-cháu đồng ý. Cháu vô cùng sung sướng vì sẽ có những người bạn tuyệt vời như vậy.
Và cô bé ở lại sống với bác sĩ, trong ngôi nhà nhỏ đầy đủ tiện nghi của mình. Tất cả những con thú đều yêu mến cô: cả chó Gâu Gâu, vịt Ki-ca, cả vẹt Ca-ru-đô và khỉ Chi-chí. Và chẳng bao lâu, cô đã học thuộc bài hát vui vẻ để cùng hát với chúng:
-ôi-ta ri-ta, ti-ta đri-ta! ại-van-đa-đa, ại-van-đa! Bác Ai-bô-lít thân yêu của chúng ta, Chúng cháu không bao giờ bỏ bác, đi xa!