Người nhiều tuổi nhất trong số những người da đen bị nạn là một ông già trạc sáu mươi tuổi. Ông là người hồi tỉnh trước tiên. Ông nói và trả lời ằng tiếng Anh. Thuyền trưởng Huvo hỏi:
- Tàu của ông bị đâm phải không?
- Vâng. Tàu Chúng tôi bị đâm đã mười hôm nay trong một đêm trời tối như mực. Lúc đó, chúng tôi đang ngủ… - ông già đáp.
- Mọi người trong tàu ra sao?
- thưa thuyên trưởng, khi chúng tôi lên được sàn tàu thì chẳng còn một ai cả.
- Toán thủy thủ chắc đã kịp thời nhảy sang tàu gây tai nạn rồi chăng?
- Có lẽ thế. Và tôi cũng mong họ được như vậy.
- Sau khi đâm tàu Anđát rồi tàu đó không trở lại cứu bọn ông à?
- Không ạ.
- Hay là chính tàu đó cũng bị đắm luôn?
- Nó không bị đắm, vì chúng tôi nhìn thấy nó chạy trốn trong đêm tối – ông già lắc đầu đáp.
- Tàu Anđát từ đâu qua đây?
- Từ Melbourne.
- Các ông không phải là nô lệ chứ?
Ông già ngửng cao đầu lên, trả lời dõng dạc:
- Thưa thuyền trưởng, không!
Theo lời ông già thì những người da đen này đã được tuyển mộ làm công nhân cho một người Anh có cơ sở khai thác lớn ở Melbourne. Họ đã làm việc ở đó được ba năm. Hết hạn hợp đông, họ trở về. Họ từ Melboure ra đi được mười bảy ngày thì đêm hôm đó tàu họ bị một tàu đâm phải. Đang ngủ, bỗng họ thấy tàu bị xô chuyển kinh khủng, họ choàng dậy và khi lần lên được sàn tàu, họ thấy các cột buồm đã gẫy cà và tàu nằm nghiêng về bên phải nhưng không chìm, nước biển tràn vào hầm tàu. Riêng thuyền trưởng và thủy thủ tàu này đều biến mất, chắc người thì bị lăn xuống biển, người thì bám được vào chiếc tàu gây nạn. Chiếc tàu vô nhân đạo này trốn biệt. Còn trơ lại năm người da đen trên chiếc tàu nửa nổi nửa chìm, lên đênh trên mặt biển, cách đất liền chừng một ngàn hai trăm dặm.
Người da đen già nhất tên là Tôm. Với tuổi cao, tính cương nghị, và những già dặn trong cuộc sống lao động, ông già đương nhiên thành trưởng toán trong nhóm bốn người cùng đi làm thuê với ông. Những người này đều là những trai tráng từ hai lăm đến ba mươi tuổi, gồm Pat (con trai ông già), Ốttanh, Antôn và Ecquyn. Người nào trông cũng khỏe khoắn, mạnh mẽ.
Mười ngày ở trong chiếc tàu bị thủng, họ ăn thức ăn còn lại trong nhà bếp và không sao lấy được lương thực dự trữ vì kho đã bị ngập nước. Nước uống cũng cạn. Khát quá, họ lả đi, nằm bất tỉnh nhân sự thì may sao thuyền Hải Âu đã đến cứu kịp thời.
Còn một mạng sống sót nữa của tàu Anđát, nếu biết nói có lẽ nó cũng thành thực kể lại như thế: đó là con chó. Mỗi khi thấy mặt nego, nó tỏ thái độ tức giận, căm hờn, thật là một điều khó hiểu. tên nó là Đinhgô.
Đinhgô thuộc giống chó lớ Hà Lan dùng để giữ nhà. Không phải thuyền trường tàu Anđát mua nó ở Úc. Hai năm trước, Đinhgô đói khát, đi lang thang trên bờ biển phía tây châu phi, gần cửa sông Congo, thuyền trưởng Anđát trông thấy đem về nuôi. Nó không thích người lạ và lúc nào cũng buồn rầu nhớ chủ cũ. Có lẽ một biến cố gì đó đã chia rẽ chủ nó với nó, nên nó liều mình đi kiếm chủ khắp miền duyên hải hoang vu. S.V., hai chữ này ghi trên vòng cổ nó, đó là tất cả những gì gắn con vật với quá khứ của nó và cũng là một điều bí ẩn mà người ta không sao khám phá được.
Mặc dù Đinhgô không thích gần gữi với người, nhưng không dữ tợn, lúc nào đôi mắt nó cũng buồn. Theo lời già Tôm, thì hình như Đinhgô muốn lánh xa những người da đen, mặc dù những người này không hề động đến nó. Có lẽ khi ở trên bờ biển châu Phi, nó đã bị dân bản xứ hành hạ.
Đó là tất cả những nhân vật còn lại của tàu Anđát. Chỉ một trận sóng lớn nổi lên là chiếc tàu Anđát sẽ bị nhận chìm, mang theo những xác chết xuống đáy biển, nếu thuyền Hải Âu không đến kịp thời. Nhờ thuyền ngược gió mà thuyền trưởng Huvo đã làm được một việc từ thiện có ý nghĩa.