Chiều hôm ấy, hai người làm công của ông Clac trở về sau chuyến đi thám thính vùng săn. Nếu không kể thời kỳ xén lông, việc chăn nuôi cừu ở trang trại này thực ra cũng không đòi hỏi nhiều công phu cho lắm, bởi lẽ ông Clac đã không tiếc tiền xây dựng dãy hàng rào dây thép vây quanh những khu đồng cỏ tươi tốt nhất để bảo vệ lũ cừu khỏi bị bọn chó hoang đingô tấn công, đồng thời tránh nạn thỏ hoang xâm phạm. Thực ra, bọn chó hoang đingô còn có thể khống chế được bằng cách thỉnh thoảng tổ chức những cuộc săn, nhưng kẻ thù ghê gớm hơn lại là lũ thỏ hiền lành, mà đầu năm 1788 người ta chỉ chở từ châu Âu đến đây vỏn vẹn có 5 con, giờ thì chúng đã sinh sôi nảy nở thành cả đàn nhiều triệu con và ăn sạch những vùng cỏ tươi tốt nhất. Dĩ nhiên, cùng với những người làm công, ông Clac thường xuyên kiểm tra tình trạng của các lớp rào dây thép và sửa chữa ngay những đoạn bị hư hỏng. Ngoài ra, người chủ trang trại chăn nuôi gia súc thông minh này còn đặt mua da thỏ từ các bộ lạc thổ dân du mục sống trong vùng chung quanh trang trại, để rồi sau đó bán lại cho thương nhân kiếm được kha khá lãi. Chính nhờ biện pháp hiệu quả đó, ông đã ngăn ngừa được sự lan tràn của nạn dịch những động vật gặm nhấm tuy nhỏ bé nhưng gây hại vô cùng lớn. Sau khi bố trí hợp lý trang trại, ông không cần phải mất nhiều thì giờ dành cho việc chăn nuôi nữa. Và bây giờ, khi những người làm công trở về báo những tin tức tốt lành, ông có thể bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho những cuộc săn lớn, một thú giải trí yêu thích của ông.
Trước hết, họ cùng nhau vạch kế hoạch hành động. Ông Vinmôpxki mua lại của ông Clac mấy con ngựa cưỡi và vài con ngựa kéo xe chở đồ cho đoàn trong suốt cuộc hành trình. Tômếch được nhận một con ngựa lùn giống Ôxtralia, mà ở đây người ta hay gọi là ngựa “pôny” Theo lời can đoan của ông Clac, đó là một con ngựa rất thông minh và dai sức. Theo kế hoạch hành động đã vạch ra, những người săn thú sẽ nhanh chóng đến tận nơi xem xét khu vực đã được người theo vết thú chọn làm địa bàn tổ chức cuộc săn.
Hôm sau, ngay khi trời vừa rạng sáng, một đoàn gồm ông Vinmôpxki, chú Xmuga, ông Bentley và Tômếch sẵn sàng lên đường đi thám thính. Họ vừa ăn sáng xong thì chợt có tiếng vó và tiếng ngựa hý vang lên. Chạy ngay lại bên cửa sổ, Tômếch trông thấy anh chàng Tôny đang buộc mấy con ngựa vào chiếc gióng gỗ ngang trên hai chiếc cọc trước nhà.
– Anh Tôny đã mang ngựa lại cho chúng ta! Chúng ta có thể đi thám thính được rồi! – nó sung sướng báo tin cho mọi người.
– Vậy thì, thưa các vị, chúng ta đừng để mất thì giờ nữa. Càng muộn thì mặt trời sẽ càng thiêu đốt chúng ta nhiều hơn! – ông Vinmôpxki vừa đứng dậy vừa nói.
Họ nhanh nhẹn chất hành lý, lều trại, vật dụng và lương thực lên lưng một con ngựa thồ, rồi mọi người đều nhảy lên ngựa. Tômếch cố gắng học theo những người khác. Nó cố gắng không tỏ ra quá phấn khởi và hồi hộp. Nó nghiêm trang móc khẩu súng săn lên chiếc cọc yên rồi nhảy phắt lên lưng con ngựa pony.
Vẻ nghiêm trang cố tình của Tômếch khiến mọi người thú vị. Ông Vinmôpxki và chú Xmuga vừa ý tứ đưa mất cho nhau vừa kín đáo quan sát hành động của thằng bé. Đúng lúc ấy, thủy thủ trưởng Nôvixki bước ra hiên. Vừa trông thấy vẻ mặt không mấy tự nhiên của người bạn trẻ tuổi, anh liền túm ngay lấy dây mõm con ngựa pôny. Chắc anh không để ý đến ánh mắt đầy ngụ ý của ông Vinmôpxki, ông biết rõ người thủy thủ hay đùa này muốn làm gì, cho nên anh liền giả vờ nghiêm trang bảo nó:
– Nghe này, người anh em, chắc chú mày không định mang theo khẩu súng săn đi chuyến này để duyệt binh đấy chứ hả? Cái dạ dày đại tướng của tớ đang đòi món thịt cănguru non nướng đây. Mặc dù bác Hoa Xung đã bảo thịt bọn thú nhảy loi choi này vừa khô vừa nhiều gân, nhưng tớ thấy dẫu sao chúng vẫn còn ngon hơn mấy thứ sơn hào hải vị kiểu Tàu mà ông lão cố tình nhồi nhét cho chúng ta thưởng thức hôm qua. Lần này chú mày hãy chứng tỏ tài năng của mình cho thật cừ vào nhé!
– Cháu sẽ cố gắng, chú thủy thủ trưởng ạ! – Tômếch đáp với giọng đầy tin tưởng.
– Sao cậu không biến thành một con cănguru đi cho rồi, cái đồ hải cẩu to xác kia! – ông Vinmôpxki lẩm bẩm. Ông không mấy hài lòng về việc chàng thủy thủ trưởng đã xui Tômếch những điều có thể khiến nó gặp những nguy hiểm không cần thiết.
Cả đoàn lên đường tiến vào thảo nguyên, nơi hoàn toàn không có đường. Lũ ngựa phi nước đại nên chẳng mấy chốc nhà cửa trang trại đã khuất sau một chỗ ngoặt. Phía xa xa trước mặt mọi người, về phương tây, nổi bật trên nền trời một dải núi không cao lắm, chạy dài, bị những lòng thung chia cắt thành từng đoạn; còn về phía đông trải rộng một thảo nguyên mênh mông, khô nẻ, chỉ mọc đầy một thứ cỏ vàng cháy. Chốc chốc, Tômếch lại nhấp nhổm rướn người trên yên cố nhìn xem có thấy chỗ cuối của vùng thảo nguyên khổng lồ đó không, nhưng mặc dù đã phi ngựa suốt ba tiếng đồng hồ ròng rã, thảo nguyên vẫn còn trải dài đến tít tận chân trời. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp một lùm cây keo mọc đơn độc, thân khô khẳng, rất ít lá, phủ đầy những nụ hoa li ti vàng ánh, hoặc những cây keo lá tràm có những chiếc lá giống như da, hầu như không tỏa xuống một chút bóng mát nào.
Mặt trời thiêu đốt khá ghê gớm, lúc này, cả đoàn phải chuyển sang phi nước kiệu để khỏi làm cho lũ ngựa mệt quá sức. Tômếch không để ý đến câu chuyện của những người đồng hành, nó chăm chú quan sát vùng thảo nguyên chung quanh. Đột ngột, nó chợt thấy hình như có những con vật gì đó lông đo đỏ, không thật rõ hình thù, lấp ló trong đám cỏ nửa xanh nửa vàng.
– Chú ý! Cháu trông thấy bọn thú hoang! Các chú nhìn kìa, phía kia kìa! – nó kêu lên, nhổm người đứng hẳn lên trên bàn đạp.
Mọi người nhìn về hướng thằng bé chỉ. Cách đó chừng hai trăm mét, họ trông thấy hình thù màu vàng đỏ của những con thú đang di chuyển chậm chạp, nom có vẻ nặng nhọc, khập khiễng. Loài thú lạ lừng ấy vẫn chưa được hơi đoàn người đang tiến lại gần vì họ ở phía dưới gió. Ông Bentley khoát tay ra hiệu cho mọi người im lặng. Theo cách làm của ông, họ đều thúc ngựa phi nước đại, chẳng mấy chốc đã tiến lại gần đàn thú đang ăn cỏ. Bây giờ họ có thể nhìn thấy rất rõ hình dáng đặc biệt của loài thú ấy, thân hình chúng to dần từ phía đầu xuống phía đuôi. Họ cũng trông thấy ngay đôi chân sau rất phát triển so với bộ ngực khá lép và chiếc đầu nhỏ xíu.
Đột nhiên, một con trong đàn thú chợt đứng thẳng trên hai chân sau. Nó quay cái đầu nom vừa giống đầu hươu vừa giống đầu thỏ về hướng những người đi săn đang phóng ngựa đến, rồi nhanh như cắt, nó bắt đầu phóng những bước dài chạy trốn. Nhìn thấy hiệu lệnh ấy, cả đàn thú đều chạy trốn rất nhanh về phía thảo nguyên. Lúc này, những người đi săn có thể quan sát thêm những đặc điểm khác của thân hình và phương thức di chuyển rất đặc biệt của bọn thú. Khi đang gặm cỏ, chúng dựa vào “tay” nghĩa là hai chân trước, rồi sau đó nhoài nửa thân sau về phía trước như thể thực hiện một bước nhảy nho nhỏ, mà khi nhảy, hai chân sau vung ra trước cả hai chân trước. Nhưng lúc chạy thì hai chiếc chân trước yếu ớt hoàn toàn không đóng một vai trò nào, chúng chỉ sử dụng hai chân sau rất khỏe và chiếc đuôi dài để nhảy những bước rất xa, vạch thành những cung tròn trong không khí, và phóng đi với tốc độ rất nhanh.
Đã được nghe quá nhiều chuyện về loài thú này nên Tômếch nhận ngay ra chúng qua những đặc điểm khác thường ấy.
– Cănguru! Đích thực là cănguru rồi! – nó hăng hái kêu to. – Ta đuổi theo chúng ngay đi!
– Đừng làm chúng sợ một cách không cần thiết, vì lúc này chúng ta chưa sẵn sàng để săn chúng, – ông Bentley bảo.
Mọi người kìm bớt ngựa lại. Tômếch xịu mặt. Ông Bentley liền an ủi nó:
– Đừng tiếc, cháu thân mến. Cháu sẽ có dịp được quan sát kỹ hơn nhiều các loài cănguru khác nhau trong cuộc săn sắp tới.
Tômếch vui vẻ trở lại, nó đáp:
– Hồi còn ở trên tàu cháu nghe bác nói rằng chúng ta sẽ phải săn các loài cănguru đỏ, cănguru xám và cănguru đá. Thế ngoài chúng ra còn loài khác không ạ?
Ông Bentley bao giờ cũng vui lòng trò chuyện với cậu bé thông minh, hơn nữa môn động vật học là chủ đề yêu thích của ông, nên ông liền giải thích rất tỉ mỉ cho nó:
– Dĩ nhiên là còn những loài khác nữa chứ, cháu ạ! Họ thú nhảy có túi gồm nhiều họ phụ. Họ phụ đầu tiên là những loài chuyển tiếp từ các loài thú túi chuyên leo cây thành loài thú nhảy trên mặt đất. Đại diện cho họ phụ này là loài cănguru xạ hương rất nổi tiếng, có chiều dài hơn bốn mươi centimét, sống ở cùng Quynxlan, loài chuột nhảy sinh sống ở các bang Niu Xaothơ Uênxơ, Victoria, Ôxtralia nam và Taxmania, cùng loại chuột túi nhỏ sống phổ biến khắp nơi trong lục địa này, ngoại trừ miền bắc. Họ phụ cănguru đích thực cũng gồm rất nhiều loài, chúng khác nhau về kích thước. Bên cạnh những chàng khổng lồ của thế giới thú có túi, chúng sẽ còn gặp những loài cănguru chỉ nhỏ bằng con thỏ. Chắc hẳn cháu đã biết rằng tổ quốc của cănguru là Ôxtralia và các đảo lân cận, còn vùng chúng thích sống hơn cả là những thảo nguyên mênh mông. Một số loài sống trong các khu rừng, nơi có nhiều trảng cỏ lớn, và loài khác cư trú tại vùng bình nguyên phủ đầy những bụi cây nhỏ lúp xúp, thậm chí có loài sống trong các khu rừng hoang rộng lớn nhất. Cũng có loài cănguru sóng trên vùng núi đá, thậm chí còn có cả loài làm tổ trên cây.
Loài gần nhất với chuột túi đồng là cănguru vằn và một loài khác cùng họ với chúng là cănguru thỏ. Trong nhóm cănguru đá mà chúng ta sẽ đi săn lần này có loài cănguru chân vàng và loài cănguru đá vùng Nam Ôxtralia. Tiếp nữa là các loài cănguru gỗ, chúng khác hẳn những loài khác trong họ phụ cả về phương thức di chuyển lẫn cách sống.
Cănguru đất là loài nổi tiếng nhất thuộc họ phụ này. Chúng sinh sống chủ yếu ở Ôxtralia, chỉ có một số loài nhỏ hơn có thể gặp tại Niu Ghinê và các đảo lân cận. Thuộc nhóm cănguru đất gồm có các loài: cănguru đỏ khổng lồ – đó chính là loài mà chúng ta vừa mới trông thấy, cănguru xám loại lớn, cănguru đầu đen, cănguru cười và cănguru Bennet. Loài cănguru Bennet là loài mà thợ săn tìm kiếm nhiều nhất, bởi bộ lông của chúng rất có giá trị.
Thời gian trôi qua thật nhanh trong khi mọi người vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ. Thậm chí họ không nhận ra rằng mình đã đến gần một khe núi rộng xẻ ngang một gò đá đang chắn ngang đường. Tôny thúc ngựa tiến vào khe núi đó, những người săn thú tiến theo anh. Họ phải thừa nhận rằng người thổ dân trẻ tuổi ấy đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ được giao. Chỗ họng khe núi mở ra thảo nguyên trông rất rộng, nhưng càng vào sâu càng hẹp, và cuối cùng thắt lại thành một lòng thung khá rộng rãi với những vách đá dựng đứng bao quanh. Chỉ cần dồn được lũ thú vào đây là chúng sẽ sa vào một cái bẫy thiên nhiên.
– Đây thật là một nơi lý tưởng để bẫy thú, – ông Vinmôpxki thừa nhận. – Chúng ta sẽ không tốn mấy công sức để dựng hàng rào chắn lối thoát ra khỏi khe núi.
– Tôny là bậc thầy tìm chỗ săn, – ông Bentley nói thêm. – Chỉ vài cái cọc và vài mươi mét dây thép là đủ giam trọn lũ cănguru trong thung lũng.
Mệt nhọc sau mấy giờ liền đi đường, mọi người đều xuống ngựa. Chú Xmuga và Tôny lập tức lo sửa soạn bữa ăn, và chỉ lát sau mùi cà phê nóng vừa mới pha đã tỏa hương ngào ngạt. Mọi người vui vẻ ngồi ăn bữa sáng thứ hai trong ngày rất ngon miệng, sau đó cánh đàn ông châm thuốc hút. Trước khi châm tẩu thuốc của mình, Tôny cẩn thận dập tắt đống lửa để khỏi làm cháy vùng thảo nguyên đang khô hạn.
– Bao giờ ta mới bắt đầu cuộc săn? – Tômếch sốt ruột hỏi Tôny, nó chỉ muốn được hành động ngay kể từ khi nhìn thấy đàn cănguru.
– Cũng phải hai hoặc ba hôm nữa, – ông Vinmôpxki đáp.
– Con không hiểu tại sao chúng ta lại lần lữa không bắt tay ngay vào cược săn, một khi chúng ta đã chọn được vị trí lý tưởng như thế này để có thể dồn đàn cănguru vào bẫy, – cậu bé phàn nàn.
– Người đi săn thú phải biết nhẫn nại và nhìn xa trông rộng, cha nó khuyên. – Con hãy tin rằng chúng ta sẽ không để phí một giây nào hết. Trong thời gian chúng ta tổ chức đoàn săn đuổi, các bạn của chúng ta còn ở lại trang trại sẽ phải đóng những chiếc cũi để vận chuyển thú và lắp ráp các xe kéo để chuyển chúng xuống tàu. Chúng ta cần phải chuẩn bị tất cả thật chu đáo. Việc chuyển thú xuống tàu “Cá sấu” sẽ còn nhiều khó khăn hơn.
– Thế mà con quên hẳn những việc đó, – Tômếch hiểu ra, nó ngồi xuống trên cỏ cạnh cha, thốt lên.
Đến lượt ông Vinmôpxki quay sang chàng trai thổ dân chuyên theo vết thú:
– Tôny này, bây giờ chúng ta phải cùng nhau đến thăm trại của những người thổ dân đã đồng ý tham gia cuộc săn.
– Đi chừng ba tiếng đồng hồ, chúng ta sẽ tới trại của bộ lạc “Người – Cănguru” – Tôny đáp.
– Ôi, Tôny, Tôny! – Tômếch bực bội thốt lên. – Chí ít tôi cũng biết chắc rằng hiện giờ ở Ôxtralia không còn một người nào thuộc bộ lạc Người – Cănguru nữa!
– Thế chuyện gì đã xảy ra với họ? – Tôny ngạc nhiên. – Thì hôm qua họ còn đến trang trại ông Clac và trò vừa trò chuyện với chúng ta đó thôi!
Câu chuyện giữa Tômếch và chàng trai thổ dân khiến ông Bentley thích thú. Ông mỉm cười vui vẻ giải thích:
– Các bộ lạc thổ dân Ôxtralia được phân chia thành nhiều bộ tộc, mỗi bộ tộc lấy tên theo nghề nghiệp của mình. Thí dụ những người thổ dân chuyên đi săn bắt cănguru thì tự xưng là Người – Cănguru, những người đi săn đà điểu emu thì tự xưng là Người – Emu, còn có bộ tộc khác tự xưng là Người – Nước. Trong những trường hợp ấy, những cái tên Cănguru, Emu hay Nước đã trở thành biểu tượng và tôtem của bộ tộc. Những người thổ dân thuộc về từng bộ tộc cùng tôtem bao giờ cũng cố gắng cung cấp hoặc sử dụng đồ vật hoặc loài thú mà họ mang tên. Vì thế, các bộ tộc “Người – Cănguru” thì chuyện cung cấp thịt và da cănguru cho thổ dân thuộc bộ tộc”Người – Emu”, “Người – Nước” và các bộ tộc khác để đổi lấy trứng đà điểu, nước và các sản vật khác.
– Bây giờ cháu mới hiểu Tôny định nói gì, – Tômếch thốt lên. – Chúng ta phải tìm đến nhờ những người thổ dân thuộc bộ tộc lấy cănguru làm tôtem để nhờ họ giúp đỡ.
– Đúng là Tôny định nói như vậy khi gọi họ là bộ tộc Người – Cănguru, – ông Bentley xác nhận.
– Ngài Bentley nói trúng cái bụng Tôny đó, – Tôny gật đầu. – Cái Đầu Nhỏ bây giờ cũng biết được Người – Cănguru là cái gì.
– Mọi chuyện thế là đã rõ, chúng ta có thể lên đường tìm bộ tộc “Người – Cănguru”, ông Vinmôpxki kết luận.
Họ lên ngựa và ra khỏi khe núi. Họ đi về hướng bắc, dọc theo một dãy núi đá thấp. Cái nóng mỗi lúc một dữ hơn, buộc họ phải giảm bớt tốc độ. Mãi sau gần hai tiếng đồng hồ Tôny mới ngoặt vào một cái hang nằm sâu trong lòng dãy núi. Không cần bị thúc, lũ ngựa cũng chuyển sang phi nước kiệu.
– Không xa nữa đâu. Ngựa đã ngửi thấy mùi nước rồi, – Tôny báo tin.
Chẳng mấy chốc, ngoài cửa hang chợt hiện ra một vùng đồng cỏ xanh tốt, rộng rãi. Giữa những bụi keo, thấp thoáng những chiếc lán nguyên thủy của thổ dân, đó là những túp lều có một bức vách làm bằng vỏ và cành cây, tựa trên những chiếc cọc gỗ dài mảnh, được bố trí ở hướng đầu gió. Khu trại giản dị được dựng lên trên một cái hố sâu chứa đầy một thứ nước đục ngầu. Từ mái lán ngoằn ngoèo bốc lên trời những sợi khói mỏng manh của bếp lửa. Tiếng chó cắn nhanh nhách như chào đón những người kỵ sĩ đang tiến lại gần.
Tôny dừng bước cách khu trại chừng vài mươi bước và nhảy phắt xuống ngựa. Anh buộc ngựa và bảo những người đồng hành làm theo mình. Những con ngựa nghểnh đầu về phía hố nước, nhưng Tôny không cho phép chúng uống. Những nhà săn thú cũng làm theo hành động của người hướng đạo, họ cùng ngồi xệp xuống cỏ.
– Sao chúng ta không vào trại mà phải ngồi ở đây? – Tômếch sốt ruột hỏi.
– Đó là phong tục của các bộ lạc thổ dân Ôxtralia, – ông Bentley giải thích. – Ở châu Âu, nếu định đến thăm ai, cháu sẽ phải gõ cửa nhà người ấy. Còn ở đây cháu phải ngồi gần khu trại và kiên nhẫn chờ đến khi có người ra mời.
– Thật là một phong tục lạ lùng, nhưng còn việc Tôny không cho lũ ngựa được uống nước thì quả thực cháu hoàn toàn không thể nào hiểu nổi, – Tômếch đáp, nhìn lũ ngựa đang vươn cổ về phía hố nước.
– Mỗi bộ tộc thổ dân bao giờ cũng hạ trại bên cạnh một hố chứa nước. Cũng chính vì thế, theo phong tục ở đây, về một nghĩa nào đó, hố nước đó là tài sản của họ. Nước là thứ thiết yếu nhất để cho thổ dân có thể duy trì sự sống, vì vậy cần phải chờ đến khi chúng ta được họ cho phép uống nước cho đỡ khát và sau đó mới được lấy nước cho ngựa uống. Nếu muốn sống hòa thuận với thổ dân, ta phải tuân thủ nghiêm túc những phong tục của họ, – ông Bentley trả lời.
Những người săn thú im lặng lắng nghe lời giải thích của ông, bởi lẽ sự thành bại của cuộc săn thú này phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ với những thổ dân. Tômếch đưa mắt phê phán ngó khu trại rồi thốt lên:
– Nhưng thổ dân Ôxtralia quả là những bộ lạc quá nguyên thủy, ngay cả việc dựng lều lán họ cũng không biết cách làm cho đúng! Lán của họ thực ra chỉ có mỗi một cái vách che duy nhất, trông cứ như một cái hàng rào dựng xiêu ấy.
– Kìa Tômếch! Cháu không bao giờ nên phê phán cư dân nguyên thủy của bất cứ một vùng đất nào trước khi suy nghĩ thật kỹ về những điều kiện mà họ buộc phải chấp nhận sống, – ông Bentley phản đối. – Thế nói ví dụ như cháu chẳng hạn, mùa hè cháu có mặc áo lông bao giờ không?
– Tại sao cháu lại phải khoác áo lông thú giữa mùa hè nóng nực chứ? – Tômếch lẩm bẩm nhún vai đáp.
– Cháu thấy đấy, mùa hè chẳng ai dại gì khoác áo lông. Ôxtralia rất nóng và khô. Vì vậy những cư dân nguyên thủy của vùng đất này thường ở trần suốt ngày, và không giống như chúng ta, họ không cần phải xây nhà để tránh rét mướt hay mưa bão. Hơn nữa họ thuộc về những tộc người chuyên sinh sống bằng nghề hái lượm – săn bắn, nghĩa là họ sống bằng cách đào các loại củ ở dưới đất và ăn thịt các loài thú săn được. Nếu như trong vùng không còn tìm được thức ăn nữa, họ lại di chuyển sang vùng khác, có nhiều thức ăn hơn. Vậy họ phải dựng nên những ngôi nhà kiên cố vững chãi để làm gì, một khi cả khí hậu lẫn điều kiện sống không buộc họ phải làm điều đó?
– Tất cả những điều bác nói đều có lý, nhưng dẫu sao, họ vẫn có thể dựng cho mình những cái lán tươm tất hơn nhiều.
Câu chuyện gián đoạn hồi lâu. Từ rìa khu trại bước ra một người đàn ông thổ dân Ôxtralia tuổi tác, mặt nhăn nheo. Tôny đứng lên, từ từ bước lại gần ông lão. Họ gặp nhau vào khoảng đúng giữa đường, ngồi xệp xuống đất và bắt đầu trò chuyện.
– Họ nói những chuyện gì mà lâu thế không biết? – Tômếch tò mò hỏi.
– Qua các sứ giả của mình, bộ tộc “Người – Cănguru” đã đồng ý sẽ tham gia cuộc săn, nhưng phép lịch sự bắt buộc chúng ta giờ đây lại phải chính thức thông báo cho người cao tuổi nhất bộ tộc một lần nữa về mục đích đã đưa chúng ta đến đây. Chốc nữa cháu sẽ thấy kết quả của cuộc trò chuyện đó ngay thôi.
Lát sau cụ già thổ dân bỏ đi về phía khu trại, còn Tôny quay trở lại với các bạn của mình, báo tin là các lão làng sẽ họp bàn để quyết định.
Đúng lúc ấy, một người phụ nữ không còn trẻ lắm xuất hiện bên cạnh hố nước, đặt xuống bờ hố một chiếc vỏ hộp bằng sắt tây rồi đưa tay ra hiệu mời. Bấy giờ Tôny mới cho ngựa lần lượt uống nước, từng con một, và sau khi đã cho chúng uống thỏa thuê, anh quay trở lại bên cạnh những người đi săn, tiếp tục đưa mắt nhìn về phía mái lán chờ đợi.
Đúng lúc ấy mấy người thổ dân bước ra và tiến lại gần những người da trắng đi săn thú.
Việc thỏa thuận về tiền trả công cho những thổ dân tham gia cuộc săn không mất nhiều thời gian. Ông Vinmôpxki có nghĩa vụ phải chuyển cho họ một số lương thực thực phẩm, mấy chiếc rìu, dao và một số vật dụng hàng ngày khác. Họ chỉ bàn nhiều đến việc cung cấp rượu để đổi lấy những con cănguru sống còn lại trong thung lũng sau khi họ tiến hành lựa chọn. Cuối cùng những người thổ dân cũng bằng lòng. Họ hứa rằng sáu mươi người đàn ông và bọn trẻ trai sẽ tham gia vào cuộc săn vây. Đồng thời họ cũng sẽ lập tức phái ngay những người chuyên theo dõi dấu thú để đi các ngả tìm kiếm những đàn cănguru lớn hơn. Mọi người thống nhất với nhau rằng cuộc săn sẽ tiến hành sau hai hôm nữa.
Khi trở về trang trại, những người săn thú đã thấy hai cỗ xe dài và nhẹ được lắp ghép từ các chi tiết mang từ tàu đến. Đó là những cỗ xe phủ bạt trên các khung bằng tre, mỗi xe thắng bốn con ngựa kéo. Trước khi trời tối họ đã xếp xong những chiếc lồng cũi được dùng để nhốt cănguru cùng một lượng thức ăn và lều trại thích hợp lên xe.
Trước khi bắt đầu cuộc săn, cần phải thu xếp để biến cái khe núi mà người tìm vết thú đã chỉ thành một chiếc bẫy để đón lõng lũ cănguru. Ngày hôm sau, một đoàn ngựa xe bắt đầu rời trang trại của ông Clac vào lúc chiều gần tối, để có thể vượt đoạn đường vất vả nhất thì phải băng qua thảo nguyên vào ban đêm. Nhờ vậy, lúc trời vừa tang tảng sáng, chỉ sau một lần dừng lại để nghỉ chốc lát, cả đoàn người đi săn đã đến vùng gần khe núi. Họ cũng chẳng cần tốn mấy thời gian để chọn nơi hạ trại. Quanh dãy xe được bố trí thành hình vòng cung, họ dựng lên những chiếc lều vải, còn lũ ngựa thì sau khi buộc chân được thả đi ăn cỏ.
Những người thợ săn bắt đầu tiến hành công việc chuẩn bị trong lòng khe núi. Tại chỗ hẹp nhất, nghĩa là ở lối vào của lòng thung lũng trong cùng, họ chôn mấy chiếc cọc vững chãi và căng dây thép đan thành lưới. Sau mấy lần tiến hành thử đóng kín cửa khe núi hẹp đó, họ lấy cành cây ngụy trang thật kỹ những chiếc cọc, để cho bọn cănguru vốn rất nhát khỏi phải hoảng hồn phát hiện quá sớm mối nguy hiểm đang chờ.
Chẳng bao lâu sau, công việc chuẩn bị đã hoàn tất. Bây giờ chỉ còn mỗi việc chờ đoàn thổ dân tham gia cuộc săn. Họ đã không thất hứa, mà kéo đến thành đoàn rất đông và cũng hạ trại ở gần khe núi.
Tômếch đi theo những người bạn lớn tuổi của mình đến chào đón đoàn thổ dân tại trại của họ. Nó háo hức muốn được ngắm thật gần các thổ dân Ôxtralia, những thợ săn lừng danh, mà theo như người ta đồn đại, không một loài vật nào sống trong vùng thảo nguyên hoang dã mênh mông này, dù nhỏ bé đến đâu, có thể ẩn nấp trước cặp mắt tinh tường của họ.
Thoạt tiên Tômếch thấy những người thổ dân giống hệt nhau như những giọt nước. Thân hình với nước da sạm màu đất của họ phủ đầy những vết sẹo lớn, dấu vết của những lần xăm mình theo kỹ thuật nguyên thủy. Họ vẽ đầy những sọc trắng, dấu hiệu là họ đã sẵn sàng chinh chiến hoặc đi săn. Nhưng điều khiến họ giống nhau nhất là mái tóc dày, quăn, hơi dài, đen óng, đỉnh mũi hẹp, cánh mũi nở phồng, đôi mắt nhỏ và đôi môi dày. Trang phục của thổ dân phổ biến là những túm cỏ và lá cây buộc vào một sợi dây quấn quanh thắt lưng. Vũ khí của họ là những chiếc lao dài, những cái bumêrăng và khiên. Nom họ thật thiện chiến và hoang dã, vẻ hoang dã mà ngay cả những nụ cười hiện lên trên nét mặt họ khi trông thấy đoàn người da trắng cũng không thể làm dịu bớt.
Những thợ săn thổ dân đem theo trong đoàn vài phụ nữ già. Theo phong tục của thổ dân vùng này, những người đàn bà này có trách nhiệm dựng lều lán và nấu ăn. Để khuyến khích những người thổ dân thêm hăng hái tham gia cuộc săn, ông Vinmôpxki đã mang đến tặng họ hai con cừu đực, rất nhiều đồ hộp và bánh bích quy. Hóa ra các thổ dân Ôxtralia là những người chủ nhân thật sự và tài giỏi của vùng đất rất khó sống này. Bằng những phương pháp chỉ họ mới biết, họ nhanh chóng tìm ra chỗ thích hợp nhất, sau đó chỉ cần đào một cái hố không mấy sâu là đã có nước chảy ra.
Thủ lĩnh của bộ tộc thông báo cho những người da trắng đi săn thú biết rằng ông ta đã phái mấy người theo vết thú đến các địa điểm trong vùng để tìm những đàn cănguru đông hơn. Ông tin rằng họ sẽ trở về để báo tin trước khi mặt trời lặn.
Suốt thời gian còn lại trong ngày, Tômếch ở với những người thổ dân Ôxtralia. Một số thổ dân đã nghe tiếng cậu bé qua miệng đám trẻ con đi thám thính trại của ông Clac hôm trước, nên việc làm quen diễn ra rất chóng vánh. Trong bữa tiệc, các vị phù thủy của bộ tộc trình bày điệu múa diễn tả cảnh đi săn cănguru. Theo tín ngưỡng của họ, điệu múa đó sẽ có tác dụng thu hút thiện chí của “thần linh” đối với những người thợ săn, bởi lẽ các vị thần linh rất thích thú khi được thấy sự nhanh nhẹn và khéo léo của những người thợ săn và sẽ gửi những đàn thú béo mẫm đến cho họ. Dĩ nhiên, cuộc vui không thể thiếu những trò biểu diễn tài nghệ của người thợ săn. Tômếch trổ tài bắn súng săn, còn các thổ dân Ôxtralia thì phô diễn tài sử dụng lao và bumêrăng. Tômếch vô cùng ngạc nhiên khi được thấy sức mạnh và sự lanh lợi khéo léo của những người đàn ông thoạt nhìn có vẻ gầy gò đó. Cánh tay mảnh khảnh của họ phóng những ngọn lao dài và ném những chiếc bumêrăng từ khoảng cách rất xa với độ chính xác gần như tuyệt đối. Với đôi chân gầy guộc gần như không có bắt thịt, họ có thể chạy nhanh như gió trong cuộc thi. Thời gian trôi nhanh, cuộc thi tài và bữa tiệc chung kéo dài mãi đến tận chiều. Đúng như lời tiên đoán của người tù trưởng, những người thổ dân được phái đi thám thính lũ thú đã quay về trại trước khi mặt trời lặn. Theo lời họ, ở khoảng cách gần nửa ngày đường về phía đông của trại, có một đàn cănguru lớn đang ăn cỏ gần một nguồn nước nhỏ, do vậy có lẽ chúng chưa thể bỏ đi ngay.
Sau khi nhận được thông tin, ông Vinmôpxki lập tức tổ chức họp bàn kế hoạch tiến hành cuộc săn. Thung lũng được chọn làm nơi dồn đuổi đàn cănguru vào bẫy nằm trong một dãy núi đá chạy dài từ bắc xuống nam. Phía tây dãy núi là vùng sa mạc chết chóc, không một chút nước, tại đó lũ cănguru không thể tìm được nơi ẩn nấp tránh những người đi săn. Do vậy chỉ cần bố trí vây từ ba phía: phía nam, phía đông và phía bắc, rồi sau đó dồn đuổi chúng về phía khe núi.
Theo ý của ông Bentley, một toán thổ dân do ông Vinmôpxki dẫn đầu sẽ đi bộ thành một hàng dài chắn phía nam của khe núi, có nhiệm vụ chặn đàn cănguru chạy thoát về phía đó. Những người thổ dân và toán thợ săn cưỡi ngựa còn lại được chia thành hai toán, một toán do chính ông Bentley chỉ huy, đi vòng từ phía đông lên phía bắc để xua lũ cănguru chạy về phía nam, toán thứ hai do Xmuga dẫn đầu có nhiệm vụ chặn đường thoát về phía đông. Theo kế hoạch đó, những người thợ săn sẽ siết chặt vòng vây, và chắc chắn sẽ dồn được đàn cănguru chạy vào trong khe núi.
Tômếch rất hài lòng được phân vào nhóm ông Bentley, nhóm này có quãng đường xa nhất phải vượt qua và có nhiệm vụ phát tín hiệu bắt đầu cuộc săn dồn. Vì vậy ngay sau khi thống nhất kế hoạch, toán người gồm mười hai kỹ sĩ và hơn mười thổ dân chạy bộ này lập tức lên đường để trước khi trời sáng phải có mặt đúng vị trí đã định.
Dẫn đầu toán là hai người chuyên lần theo vết thú, ngay sau họ là ông Bentley và Tômếch. Trời đêm rất sáng. Trên bầu trời không mây chi chit những vì sao, ngôi sao Chữ Thập Phương Nam sáng tỏ hơn cả. Vầng trăng to tướng rải xuống thảo nguyên một làn ánh sáng bàng bạc.
– Chúng ta hành quân có chậm quá không bác? – Tômếch sốt ruột hỏi, nó chỉ muốn mau mau có mặt ngay tại vị trí đã được chỉ định.
– Chúng ta nên đi chậm để khỏi làm lũ ngựa sớm mệt, – ông Bentley đáp, – bởi lẽ còn cả một quãng đường dài phải vượt qua kia mà. Còn khi đã bắt đầu cuộc săn dồn thì những con tuấn mã của chúng ta phải chạy nhanh như gió mới kịp.
– Thưa bác, liệu lũ cănguru có thể thoát khỏi vòng vây không nhỉ?
– Mọi chuyện phụ thuộc vào sự khéo léo và khả năng phán đoán nhanh chóng của chúng ta. Khi bị nguy hiểm, lũ cănguru có thể nhảy nhanh như gió. Trong điều kiện bình thường, chúng nhảy xa khoảng gần ba mét, nhưng khi hoảng hốt, chỉ một bước nhảy chúng cũng có thể vượt qua mười mét.
– Trong khi săn dồn chúng ta phải làm những gì hả bác?
– Điều mà người ta hay làm trong những cuộc săn như thế – đó là hò hét và đánh động thật dữ… – ông Bentley bảo.
Sau mấy giờ đường, những người kỵ sĩ trông thấy dãy núi hiện lên mờ mờ phía xa xa trên nền trời bàng bạc ánh trăng. Chợt những người dẫn đường dừng lại, bảo rằng theo tính toán của họ thì có lẽ cả đoàn đã vượt ngang vị trí đàn cănguru rồi. Ông Bentley ra lệnh dừng lại nghỉ ngơi một lát. Ngựa bị buộc cương lại với nhau thả đi gặm cỏ, những người thợ săn ngồi bệt xuống đất để ăn lót dạ và nghỉ ngơi chút đỉnh trước khi bắt đầu cuộc săn.
Quá sốt ruột, Tômếch gần như không chờ nổi đến lúc tàn đêm. Ông Bentley khuyên nên chợp mắt một lát, nhưng cố gắng lắm mà nó không sao ngủ được. Lần đầu tiên trong đời được tham gia một cuộc săn thú lớn như thế, nó không nén nổi hồi hộp. Cách xử sự của ông Bentley càng khiến nó sốt ruột hơn: như không hề có chuyện gì hệ trọng trên đời, ông đang ngồi bình thản hút tẩu thuốc và trò chuyện với những người thổ dân về một dịp lễ gì đó, được gọi là “kôrôbôri”.
Qua câu chuyện, Tômếch được biết rằng trong dịp lễ đó, cộng đồng thổ dân đón nhận lũ con trai mới lớn vào giới đàn ông. Lễ bao gồm nhiều thủ tục hành lễ rất bí mật, trong đó người ta nhổ một chiếc răng cửa ở bên trái hàm trên của các cậu con trai mới lớn, để làm biểu tượng của sự trưởng thành. Cả dịp lễ là những trò vui chơi, nhảy múa và tiệc tùng, và chỉ có đàn ông được tham gia.
“Cái bác Bentley này thật là kỳ quặc quá đi mất thôi, – Tômếch cáu kỉnh nghĩ bụng. – Tại sao ngay trước khi mở màn cuộc săn, bác ấy lại đem chuyện nhảy múa và ca hát ra nói chứ!”
Nó quay lưng lại ông Bentley và sốt ruột nhìn trời, mãi mà vẫn chưa thấy một chút dấu hiệu nhỏ nhoi nào của buổi bình mình. Nó quên bẵng đi là ở cũng vĩ độ này, ngay trước khi trời sáng thì màn đêm vẫn đen đặc như lúc nửa đêm. Vì thế, lòng nó vui sướng không sao tả xiết, khi trông thấy ông mặt trời khổng lồ lừ lừ xuất hiện trên bầu trời mà không hề có một tín hiệu nào của rạng đông báo trước. Những người thợ săn nhộn nhịp hẳn lên. Ông Bentley lập tức ra lệnh cho ba người thổ dân chuyên tìm vết thú đi trinh sát. Họ nhẹ bước lần về phía thảo nguyên xa xa, và chỉ lát sau đã hoàn toàn khuất bóng trong làn cỏ cao. Ông Bentley lấy trong túi du lịch một quả pháo hiệu khói, để chuẩn bị báo tin cho những người thợ săn ở toán phía nam và phía đông biết giờ khởi đầu cuộc săn. Sau đó cả toán liền nhanh nhẹn tiến lên theo bước những người thổ dân thám thính.
Họ đi suốt ba giờ liền trong thảo nguyên, mà vẫn chưa thấy những người do thám đâu cả. Tômếch đâm lo không hiểu họ có thể lạc nhau không, thì một người trong bọn họ chợt đột ngột hiện ra giữa làn cỏ cao.
– Có thấy đàn cănguru không? – ông Bentley tiến lại gần người đó khẽ hỏi.
– Vâng, có thấy, nhưng trong đêm nó đã bỏ nguồn nước dịch chuyển khá xa lên phía bắc, – người thổ dân nói bằng thứ tiếng Anh trúc trắc. – Bây giờ nó đang ở đó.
Nghĩa là bây giờ nơi đàn cănguru đang ăn cỏ nằm đối diện ngay với dãy núi đá.
– Không hay rồi, – ông Bentley nhận xét. – Tôi sợ rằng toán có nhiệm vụ chắn đường phía đông đang còn cách chúng ta xa quá.
– Xin bác hãy làm thế nào để chúng nó không thoát khỏi vòng vây đi bác! – Tômếch kêu lên.
– Chúng ta sẽ cố gắng để khắc phục điều đó, nhưng trước hết cần phải hết sức giữ bình tĩnh đã! – ông Bentley nghiêm nghị đáp.
Ông ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo:
– Nhóm ta quá ít người để có thể chia thành hai toán. Nếu ngay bây giờ chúng ta không bắt đầu cuộc săn thì lũ thú có thể sẽ di chuyển xa hơn nữa về phía bắc. Vì vậy, ba người phải đi ngay về phía nam để chuẩn bị chắn đường đàn cănguru nếu như chúng định tìm đường lọt vòng vây giữa nhóm chúng ta và nhóm phía đông.
Ông ngần ngừ cân nhắc hồi lâu về việc lựa chọn ba người chặn đường phía nam, không hiểu có điều gì đó khiến ông không thể quyết định nổi. Mãi sau, ánh mắt thăm dò của ông dừng lại ở Tômếch.
– Tômếch, cháu hãy dẫn hai người thổ dân đi thật chậm về phía nam, – ông quyết định. – Khi trông thấy quả pháo hiệu do bác bắn lên, thì phải lập tức phóng nhanh về phía trước, như thể có một trăm con hổ Bengan đang đuổi đằng sau lưng cháu. Cháu phải giữ hướng song song với dãy núi cho đến khi gặp toán dồn đuổi từ phía đông. Khi đó, cháu sẽ nhập với toán kia và cùng họ khép kín vòng vây.
– Ôi, thưa bác, không thể cử ai khác đi thay cháu được sao? – Tômếch xịu mặt khẩn khoản.
– Cháu sợ như thế sẽ bỏ lỡ cuộ săn phải không? – Ông Bentley hỏi nó. – Này cậu bé, cháu sẽ là người giữ một đầu chủ yếu của vòng vây trong tay đấy. Cháu có biết tại sao bác chọn cháu không?
– Cháu cũng không thật hiểu, nhưng…
– Nhìn mặt cháu bác hiểu là cháu không đoán ra. Bác sẽ giải thích ngay bây giờ. Nếu như đàn cănguru cố tìm cách lọt vòng vây qua quãng hở giữa toán chúng ta và toán đang từ phía đông kéo đến, thì phải bằng mọi giá xua chúng quay trở lại. Một khi chúng đã phá được vây thì chúng sẽ tản đi như gió trên thảo nguyên. Cháu có biết làm thế nào để có thể xua ngược cả đàn cănguru quay trở lại không?
– Cháu không biết ạ, thưa bác!
– Trong trường hợp cần thiết, cần phải bắn chết con đầu đàn. Cũng chính vì vậy mà bác đã chọn cháu. Qua những chuyện mọi người kể về cháu, bác coi cháu là tay thiện xạ số một trong nhóm tâ. Giá như có thủy thủ trưởng Nôvixki hoặc chú Xmuga ở đây thì bác sẽ có thể chọn một trong hai người đó.
Tômếch đỏ mặt tự hào, hồi lâu nó không thốt lên lời nào để khỏi thể hiện sự xúc động. Cuối cùng, nó mới nói bằng giọng gần như thản nhiên:
– Hà, nếu sự việc là như thế thì cháu đành phải đi về phía nam vậy. Nhưng những người thổ dân phải trỏ cho cháu đúng con đầu đàn để cháu khỏi bắn lầm.
Ông Bentley lo lắng nhìn thằng bé.
“Cái thằng nhóc này thật là kiêu căng quá đi mất thôi! Rất có thể nó làm hỏng cuộc săn của cả đoàn như bỡn!” – ông nghĩ thầm.
Nhưng không còn thời gian để cân nhắc nữa. Ông Bentley chọn hai người thổ dân và giải thích ngắn gọn cho họ về nhiệm vụ mà họ phải thực hiện. Tômếch phóng ngựa dẫn họ về phía nam, trong khi ông Bentley đưa cả đoàn còn lại lên phía bắc.
Khi chỉ còn lại một mình với hai người thổ dân, bao nhiêu sự tự tin của Tômếch liền tan biến như mây khói. Sẽ ra sao đây nếu nó đi chệch hướng? Đến lúc cần thiết, nó có đủ khả năng để xua đàn cănguru chạy ngược trở lại không? Nó liếc mắt nhìn sang hai người thổ dân Ôxtralia đang đi bên cạnh và lo lắng khi trông thấy hai đôi mắt màu đồng thau cũng đang dò xét nó.
– Ta đi đúng đường chứ? – nó hỏi để thêm vững tin.
– Đi tốt đấy, nhưng chậm hơn, – một người thổ dân khẳng định.
Tômếch liền kìm ngựa lại, cho ngựa đi bước một. Nó cảm thấy thời gian hình như kéo dài vô tận. Bây giờ, chốc chốc nó lại sốt ruột nhìn về phía đông xem có thấy toán người ngựa phía đó kéo đến chăng. Song mãi mà vẫn chẳng thấy động tĩnh gì cả.
“Mình sa bẫy rồi! – nó nghĩ bụng. – Mình trở thành thủ lĩnh của hai gã thổ dân, họa có trời mới biết phải làm gì với họ bây giờ đây chứ! Ba hay chú Xmuga sẽ không nỡ đối xử với mình thế này bao giờ! Còn nếu hai người thổ dân này trở mặt dẫn mình đi lạc trong thảo nguyên thì sao nhỉ?”
Đúng lúc đó, một bàn tay da nâu sạm chợt giơ lên túm chặt lấy dây mõm của con ngựa pôny, kìm nó dừng hẳn tại chỗ. Tômếch nhắm nghiền mắt lại, chờ một nhát đâm của kẻ phản bội. Nhưng thay vì tiếng khí giới, nó chợt nghe tiếng hét lảnh lói của người thổ dân:
– Nhìn kìa! Hiệu lệnh kìa!
Nó mở bừng mắt ra. Hai người thổ dân Ôxtralia trỏ tay về phía tây. Xa xa, quả pháo hiện đang bay vút lên, kéo theo sau một đuôi khói rất dài. Cuộc săn thú đã bắt đầu! Tômếch lập tức quên đi những nỗi lo sợ vớ vẩn của mình. Nó thầm nhẩm lại những lời dặn dò của ông Bentley: ‘ Khi trông thấy pháo hiệu của bác, cháu phải lập tức phóng nhanh hết sức, như thể có một trăm con hổ Bengan đang đuổi đằng sau vậy!”
– Phi ngựa mau lên, thật nhanh vào! – nó hét gọi mấy người thổ dân.
Họ cùng quất ngựa phi nước đại, cỏ vùn vụt lướt đi dưới vó ngựa. Xa xa về phía tây dậy lên những tiếng súng nổ giòn giã và tiếng hò là của đoàn người săn đuổi.
Túm chặt tay vào cọc yên cao, thúc con ngựa pôny chạy nhanh hết sức, Tômếch vượt lên trước vài mét so với hai người thổ dân, bởi họ cưỡi ngựa không giỏi lắm. Nó gần như quên bẵng cả họ, cứ phóng ngựa cật lực, không ngoảnh lại phía sau. Đột nhiên, nó nghe thấy những tiếng kêu:
– Khẩu súng! Khẩu súng! Khẩu súng!
“Bọn họ muốn gì ở mình nhỉ? – nó nghĩ bụng và ngoái đầu nhìn lại.
– Khẩu súng! Khẩu súng! – hai người thổ dân vẫn gào lên.
Mãi đến giờ Tômếch mới nhận ra những tiếng súng và tiếng hò hét của cuộc săn vây đang gần lại rất nhanh. Nó đưa mắt nhìn sang phải và chợt vô cùng hồi hộp. Đàn cănguru với những bước nhảy rất dài đang băng băng lao qua thảo nguyên, về phía đông, mỗi lúc một cách xa dãy núi đá. Cả một đàn rất đông kéo thành một vòng cung dài. Những con khỏe nhất chạy dẫn đầu. Cách chừng vài trăm mét sau đàn cănguru là bóng những kỵ sĩ đang pho nước đại đuổi theo, miệng hò hét như điên dại.
– Khẩu súng! Khẩu súng! – hai người thổ dân vẫn rối rít, vừa kêu vừa trỏ vào đàn cănguru đang phóng nhanh về phía họ.
Tômếch đưa mắt ước tính khoảng cách giữa nó và đàn cănguru đang phóng tới. Chúng nhảy nhanh hơn hẳn ngựa. Theo ước lượng của Tômếch, đàn thú đang chạy theo đường vòng có thể vượt qua nó ở khoảng chừng ba trăm mét.
“Mình không thể bắn trúng đích ở cự ly này!” – nó thầm nghĩ và tiếp tục quất ngựa phi nhanh thêm.
Con ngựa thấp bé nhưng dai sức vươn chiếc cổ ngắn phóng hăng gấp bội. Một tay vừa bám chặt bờm ngựa, Tômếch thận trọng giương súng. Con ngựa cố gắng đến kiệt sức, rốt cuộc cũng đã tiến lại gần hơn những con cănguru dẫn đầu cả đàn đang tháo chạy. Những người thổ dân cũng đã phóng kịp Tômếch, một trong hai người phóng vượt lên, kêu to:
– Chúng tao kêu, còn mày bắn! Mau lên, mau lên kìa!
Họ vượt qua Tômếch đúng lúc đó vừa ghìm ngựa lại. Nhổm người đứng trên bàn đạp, Tômếch giương súng lên. Những con cănguru đã tiến sát đến gần, dẫn đầu đàn là một con đực to lớn, có những bước nhảy xa hơn hẳn những con khác trong đàn. Hai chân trước ngắn ngủn ép sát vào ngực, cái đuôi dài khỏe mạnh vươn dài ra sau, nó căng hết cơ bắt, nện mạnh xuống mặt đất đôi chân sau thon lẳn, dẻo dai như lò xo, để nhảy bổng lên không, đưa cả thân hình màu nâu đỏ lướt nhanh trên đám cỏ.
“Chắc hẳn đây là con đầu đàn!” – Tômếch nghĩ thầm.
Nó bắt đầu ngắm bứn, nhưng suốt một lúc lâu nó không sao đưa đầu ruồi dõi kịp mục tiêu là cái thân hình đang di động nhanh như cắt của con thú.
“Không xong rồi!” – nó chán nản nghĩ thầm, buông súng.
Hai người thổ dân đã vượt lên trước nó đến vài mươi bước. Bây giờ họ thúc ngựa phi thẳng vào con cănguru, hét lên những tiếng đầy đe dọa. Con đầu đàn dừng lại một giây, dựng đứng cả người lên trên hai chân sau. Chính giây phút đó đã khiến nó mất mạng. Tômếch nhanh nhẹn giương súng lên ngắm rất nhanh rồi ngoéo cò. Tiếng súng nổ vang rền lan trên thảo nguyên. Con ngựa nhỏ gần như ngồi bệt xuống trên hai chân sau, suýt nữa Tômếch ngã lăn xuống đất. Khi lấy lại được thăng bằng, Tômếch trông thấy con cănguru khổng lồ ngã vật ra đất.
– Hoan hô! – Tômếch hét lên, quàng chéo khẩu súng qua vai, nó rút khẩu súng lục, vừa bắn lên trời vừa lấy hết sức hò hét cùng với hai người thổ dân.
Hoảng hồn vì cái chết của con đầu đàn, đàn cănguru liền ngoặt về phía nam. Đột nhiên, Tômếch trông thấy một đoàn kỹ sĩ nhô ra từ đám cỏ cao. Những tiếng súng mới nổ rền vang, hòa lẫn với tiếng hò hét của vài mươi cái cổ họng. Đó chính là toán của chú Xmuga vừa kéo tới để khép chặt vòng vây không cho lũ thú chạy trốn về phía đông.
– Hoan hô! – Tômếch gào lên lần nữa, rồi phóng ngựa đuổi theo đàn cănguru đang tháo chạy.
Bị dồn đuổi từ hai phía, đàn thú ngoặt hẳn về phía nam, nhưng chẳng mấy chốc con đường thoát đã bị chặn bởi toán thổ dân đầu tiên. Bọn thú lại cuống cuồng lao về phía đông, nhưng bị toán của chú Xmuga đang hăng máu chặn lại bằng những phát súng và tiếng hò hét. Chạy về phía bắc cũng không thể, vì bị chắn bởi toán người của ông Bentley. Và thế là cả đoàn thú kinh hoàng, hoàn toàn mất phương hướng, đành chạy thục mạng về hướng tây, phía dãy núi đá dài, nơi khe núi trở thành cái bẫy đang lặng lẽ chờ đón chúng.
Và không tốn mấy sức lực, cũng không gặp thêm chuyện gì bất ngờ, các toán thợ săn dồn được cả đàn cănguru vào khe núi, rồi sau đó họng khe núi liền bị hàng rào dây thép bịt kín lại.
Sau khi đã kiểm tra lại rào chắn khe núi, ông Vinmôpxki liền đưa mắt tìm Tômếch. Nhưng ông chẳng thấy nó đâu cả.
Được hỏi, ông Bentley mỉm một nụ cười dễ thương trả lời:
– Xin bác đừng lo về cháu. Nó khá lắm! Chính nhờ có nó mà đàn cănguru không thoát khỏi vòng vây. Đêm hôm qua, cả đàn thú đã di chuyển xa hơn lên phía bắc, vì thế tôi sợ rằng sẽ có một khe hở rất lớn giữa người của tôi và toán của anh Xmuga. Tôi bèn chọn tay thiện xạ nhất trong nhóm để khi cần có thể bắn hạ con đầu đàn, xua chúng về phía nam. Tôi đã chọn Tômếch, vì theo ý tôi, thằng bé có năng lực rất đặc biệt trong sử dụng vũ khí. Nó chấp nhận sự phân công của tôi. Và chính trong thời điểm căng thẳng nhất của cuộc săn, nó đã lập công rất tuyệt. Bây giờ nó đang đi cùng mấy người thổ dân để mang con thú bị bắn hạ về.
– Thật tiếc là anh không được thấy thằng bé giương súng bắn, – chú Xmuga nói thêm. – Tôi ở cách nó khoảng một trăm mét. Chỉ bằng một phát đạn nó hạ ngay con đầu đàn. Nó sẽ là một tay súng tuyệt hảo!
– Nhận xét của ông Xmuga, một người vốn nổi tiếng thiện xạ, hẳn là phải rất chính xác, – ông Bentley góp lời. – Chứ nói quả tình, tôi… xin thú thực là… tôi chưa bao giờ bắn hạ một con vật nào. Tôi thích bắt sống chúng, chứ không thể giết chúng được.
– Giết chết thú vật một cách thiếu suy nghĩ quả là sự dã man, – ông Xmuga đáp. – Nhưng đối với một người săn thú, có cặp mắt tinh xác là một ưu điểm lớn.
– Dĩ nhiên, anh rất có lý! Tômếch đáng được khen vì đã xử sự rất chuẩn xác và thông minh trong cuộc săn vừa rồi. Cháu đã thực hiện rất chính xác những mệnh lệnh của tôi. – ông Bentley thừa nhận.
Ông Vinmôpxki hết sức hài lòng khi nghe cuộc trò chuyện ấy. Ông sốt ruột chờ con trở về. Khoảng một tiếng đồng hồ sau Tômếch trở về trại. Nó vừa kịp dừng ngựa đã hỏi ngay về thủy thủ trưởng Nôvixki. Ông Vinmôpxki báo cho nó biết người thủy thủ đang phân phát thực phẩm cho thổ dân.
– Vậy thì con phải đi tìm chú thủy thủ trưởng để giao cho chú con cănguru mà con đã hứa mới được, – Tômếch nói, rồi cùng với đám thổ dân vây quanh, nó đi sâu vào trong khe núi, kéo theo con ngựa đang lặc lè chở trên lưng con thú vừa săn được.