Đàn ngựa phi băng băng qua thảo nguyên.
Hai nhà săn đà điểu không may mắn tranh thủ lúc đi đường nhồi nhét đầy dạ dày những thứ thực phẩm mà các bạn họ mang theo, và khi cơn đói đã qua đi, tâm trạng của hai chú cháu liền trở nên dễ chịu hơn. Dẫu sao, họ cũng đã được chú Xmuga cho biết ông Vinmôpxki không giận họ đã tự tiện bỏ đi săn mà không báo trước. Họ vui vẻ chế giễu lẫn nhau, nhắc lại những lo sợ khi trông thấy mấy người thổ dân đuổi theo.
– Chú thủy thủ trưởng đang lê chân gần như không nổi, vậy mà vừa thoáng thấy bóng thổ dân, chú ấy đã chạy vắt chân lên cổ, làm cháu đuổi theo muốn đứt hơi, – Tômếch đùa người lính thủy.
– Chú mày nói phải đấy! Quả có thế thật, tớ chỉ sợ rằng chú mày tình cờ sẽ làm ảnh hưởng xấu đến công việc làm ăn của ông Clac đáng kính mà thôi – thủy thủ trưởng lầu bầu, liếc nhìn cậu bé.
– Chú lại bịa ra chuyện gì nữa thế? – Tômếch hoàn toàn không ngờ điều láu cá ẩn giấu bên trong câu nói của người thủy thủ.
– Thề cá voi nuốt tớ đi nếu tớ có nói không đúng sự thật! Lúc ấy tớ chợt nhớ câu chuyện về năm con thỏ đầu tiên được những người định cư mang đến Ôxtralia.
– Thỏ thì liên quan gì đến chuyện này?
– Thế mà liên quan đấy! Bởi lẽ, ngược với ý định tốt đẹp của các vị thực dân, lũ thỏ sinh sôi nảy nở đàn đàn lũ lũ, đến độ chúng chén sạch hết cả cỏ dành để nuôi cừu. Tớ chỉ sợ, người anh em ạ, nhỡ mà chú mày sợ quá “vãi” một ít hạt cải đắng ra đấy, thì biết đâu nó chẳng gây ra một tai họa mới. Chú mày có hình dung được nếu những thứ mà chú mày “vãi” ra ấy phát triển tốt bời bời ở đây, át cả cỏ, thì tình hình sẽ ra sao không? Lũ cừu chỉ có mà chết đói!…
– Chú lại có thể nói thế được cơ à! – Tômếch nổi cáu. – Thế cháu đã phải động viên ai trong khe núi lúc cơn bão cát đang hoành hành nhỉ?
– À, thằng bé này quái thực! – thủy thủ trưởng phá lên cười. – Lưỡi chú mày cứ dẻo như kẹo kéo ấy thôi! Nhưng mà thôi, chúng mình mải tán chuyện nhăng nhít mà quên chưa hỏi các bạn của chúng ta xem cuộc săn đà điểu đạt kết quả ra sao?
– Chú ý! Các bạn của chúng ta bây giờ mới hoàn hồn để quay trở lại với chúng ta đấy! – chú Xmuga kêu lên. – Nếu quả thực hai chú cháu quan tâm đến kết quả của cuộc săn, thì tôi có thể báo tin cho hai người vui rằng, thoạt tiên cả đoàn cũng chẳng may máy chút nào. Có quá ít ngựa được luyện thành thục vào việc săn đà điểu. Phần lớn mọi người trong đoàn chỉ có thể tham gia vào cuộc đua ngựa mà thôi! Các thầy phù thủy Ôxtralia đã làm mọi điều có thể để hỗ trợ chúng tôi, các anh chắc cũng còn nhớ vũ điệu của họ trước khi chúng ta tiến hành cuộc săn cănguru, họ muốn bằng cách đó để kêu xin chư thần trợ giúp. Lúc đoàn đi săn đà điểu cũng vậy, ngày nào vị thầy mo già nhất cũng vẽ lên cát hình con đà điểu Ôxtralia trước khi mặt trời mọc. Mãi đến ngày thứ ba, ánh mặt trời mới ôm trọn hình vẽ con đà điểu, điều đó có nghĩa là các chư thần đã thuận với những điều chúng ta cầu xin. Được báo tin đó, thổ dân liền rất sung sướng. Họ tham gia rất đông vào cuộc săn, kết quả là ngay ngày hôm ấy chúng tôi đã bắt sống được đôi chim đầu tiên. Trong khi đuổi theo chúng, chúng tôi đã đi khá xa lên phía bắc. Đúng lúc vừa cho lũ chim vào lồng thì Tôny báo trước cơn bão cát sẽ kéo tới. Chúng tôi lập tức quay về, nhưng không kịp, cơn bão cát ào tới trên thảo nguyên. May mà chúng tôi đi dọc theo dãy núi đá nên được nó che khuất bớt những cơn gió nóng. Chính lúc đó, hoàn toàn bất ngờ, từ một khe núi nhỏ có bốn con đà điểu chạy ran gay trước mặt chúng tôi. Hẳn chúng phải chạy trốn từ rất xa lại, nên chúng ta chẳng mấy vất vả để vây bắt chúng. Và thế là kết thúc cuộc săn chúng tôi tóm sống được sáu con đà điểu, hiện chúng đang được nhốt trong trại.
– Tôi dám đánh cuộc một chai rượu rum rằng đó chính là những con đà điểu đã tuột khỏi tay chúng tôi trốn vào khe núi – thủy thủ trưởng ngắt lời.
– Thật là một chuyện trùng hợp thú vị – Tômếch đồng tình. – Thế là vô tình chính hai chú cháu mình cũng góp phần đắc lực vào kết quả mỹ mãn của cuộc săn.
– Có nghĩa là không có cái rủi nào lại không chứa đựng cái may – thủy thủ trưởng triết lý.
– Có thể là như thế. Rất có khả năng chúng tôi có mặt đúng gần cái khe núi mà hai chú cháu đã ẩn nấp để tránh cơn bão cát – chú Xmuga khẳng định.
– Chuyện gì tốt đều kết thúc có hậu – thủy thủ trưởng lại triết lý. – Nhưng ta thúc ngựa phi nhanh hơn mới được, kẻo tối đến nơi rồi!
Sau khi trời tối, ngựa chạy chậm lại, chúng chuyển sang nước kiệu. Ngồi lắc lư trên yên, Tômếch càng ngày càng thấy buồn ngủ, người nó nghiêng dần về phía cổ ngựa, như thể nó đang cúi người về phía vầng trăng vừa mọc cuối trời.
Mãi đến nửa đêm họ mới về đến trại. Được ngủ gà ngủ gật trong suốt chuyến đi, Tômếch phấn khởi quyết định không đi ngủ trước khi cha trở về. Và nó chẳng phải chờ lâu, chỉ không đầy một tiếng đồng hồ sau, ông Vinmôpxki cùng ông Bentley đã trở về. Ông Vinmôpxki sung sướng trước cái kết thúc may mắn của cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm của đứa con trai. Mọi người quây quần chung quanh đống lửa cùng bữa tối. Một lần nữa, Tômếch phải thuật lại diễn biến của chuyến đi săn emu không mấy may mắn của hai chú cháu. Mọi người đều cười vui khi nghe lời bình luận rất tếu của Xmuga, cho nên đến tận lúc mặt trời gần mọc họ mới đi nghỉ.
Mãi đến gần trưa Tômếch mới tỉnh giấc. Nó nghe thấy có tiếng ồn ào trong trại. Nhìn ra ngoài lều, thấy mọi người đã xếp xong những lồng chứa đà điểu lên xe, lập tức nó quên hết bao nỗi mệt nhọc. Nó liền chạy ngay ra ngắm lũ đà điểu. Những con chim khổng lồ vừa nhìn nó bằng đôi mắt to tướng, vừa đảo đôi chân như một vũ nữ ba lê.
Lát sau, mấy cỗ xe lăn bánh trở về trang trại, Tômếch vui mừng nghĩ rằng lúc trở về tàu “Cá sấu” nó sẽ có dịp được ngắm kỹ hơn lũ chim kỳ lạ này. Nó hăng hái tham gia giúp mọi người cuốn lều trại để ra về.
Ngay trong ngày hôm ấy, mọi người đều trở về trang trại của ông Clac. Không để phí thời giờ, họ bắt tay chuẩn bị chuyển dần lũ thú đã săn được xuống tàu “Cá sấu”. Người ta dùng xe chở lũ cănguru, đà điểu và chó hoang đingô ra ga Uynxania, rồi từ đó theo tàu đến cảng Ôxguxt.
Từ lúc trở về trang trại, Tômếch nóng lòng chờ đến lúc lại được lên đường. Nó mong muốn có được những cuộc phiêu lưu mới. Và vì vậy nó phấn khởi nhận lệnh khởi hành. Muốn được biết ngay về vùng đất mà lần này đoàn chuẩn bị tới, nó cưỡi con ngựa pôny lại gần ông Bentley.
– Lần này chúng ta sẽ săn loài thú gì hở bác?
– Chúng ta sẽ săn thú tìm lũ cănguru xám, bọn này còn hung hăng hơn nhiều so với lũ cănguru đỏ vừa bị bắt. Chúng sống trong những vùng có rừng, gần các nguồn suối. Tại vùng đó chúng ta cũng sẽ tìm kiếm gấu túi koala, cáo có túi, thú lông nhím ăn kiến, những con rắn hổ mang rất độc và kỳ nhông có mào, thực ra đó là những vẩy da trên đầu trông giống như cái mào. Chúng ta sẽ kết thúc bằng cuộc săn cănguru đá tại những dãy núi chạy dọc theo bờ biển phía đông – ông Bentley đáp.
– Như vậy có nghĩa là chúng ta sẽ từ giã thảo nguyên – Tômếch không khỏi hài lòng thốt lên.
– Chúng ta sẽ đi tàu hỏa vượt qua dải thảo nguyên chia cắt Uynxania với vùng có rừng che phủ. Bằng cách đó ta sẽ tránh được cuộc hành trình dài và rất mệt nếu cưỡi ngựa. Đến khu vực thảo nguyên rừng thưa và rừng cây bụi chạy dài chúng ta mới tiếp tục đi bằng xe ngựa.
– Rừng cây bụi là gì hở bác? – Tômếch tò mò hỏi.
– Đó là một loại rừng đặc biệt, rất đặc trưng cho Ôxtralia. Nó không giống với các loại rừng khác trên khắp địa cầu. Giữa những cây cao, mọc um tùm vô số những khóm cây và bụi cây thấp nhỏ thường xanh quanh năm. Thông thường những khu rừng cây bụi này cũng nằm gần các khu rừng gai, mà như cháu đã biết, mọc toàn những cây keo và keo lá tràm còi cọc. Trong bầu không khí tĩnh mịch bao phủ những rừng cây bụi, chỉ thảng hoặc mới vang lên những tiếng kêu của loài vẹt hoặc tiếng sột soạt của các loài bò sát hiếm hoi.
– Loại rừng ấy chắc cháu chẳng thích đâu – Tômếch nói.
– Cũng chưa chắc đâu, cháu ạ. Về ban đêm, những khu rừng như thế có vẻ đẹp rất huyền diệu. Cũng có nhiều người tự nguyện sống phần lớn cuộc đời trong những khu rừng cây bụi như thế, người ta hay gọi bọn họ là những người rừng bụi, hay bushman. Trong đám người ấy, cháu sẽ gặp những kẻ bị vỡ mộng tìm vàng và những người rời bỏ các đô thị lớn để tìm phiêu lưu trong lòng thiên nhiên hoang dã.
– Thế những người đó say mê điều gì trong đám rừng cây bụi ấy, hở bác? – Tômếch lại hỏi.
– Cũng khó lý giải điều ấy cho thật rõ ràng. Thoạt tiên người ta rất khó quen với rừng cây bụi. Họ thấy sợ, thấy kinh hoàng trước những khoảng rộng mênh mông không một bóng người, với biết bao khó khăn và nguy hiểm khi phải sống trong vùng hoang vắng ấy. Nhưng sau một thời gian nào đấy, cái khoảng mênh mông vô bờ đầy gai góc ấy lại cuốn hút con người đến mức họ khó lòng sống thiếu nó và chỉ mong được sống mãi mãi tại đó mà thôi. Điều đó cũng giống như tiếng gọi của rừng vậy.
– Cháu thấy chuyện ấy thật là kỳ lạ – Tômếch thốt lên, nửa tin nửa ngờ.
– Những cư dân nguyên thủy của Ôxtralia chính là những người đầu tiên bị chinh phục bởi vẻ đeph hoang dã của rừng cây bụi. Vì vậy, họ có rất nhiều huyền thoại. Theo lời của những người thổ dân, trên các tầng trời cao kia có một vị nữ phù thủy, thỉnh thoảng vị phù thủy ấy mới xuống hạ giới, ngự trên những chiếc lá theo gió bay đi. Vị phù thủy mời hồn người đến tụ hội chính trong những rừng cây bụi ấy, và bằng một sợi chỉ vô hình liên kết mỗi lúc một thêm nhiều người lại với mình. Nếu như ai đó bị lầm lạc rời bỏ những khu rừng cây bụi, lòng họ sẽ dậy lên nỗi nhớ khôn nguôi, kéo họ quay trở lại với rừng. Cháu phải chú ý cẩn thận đấy, Tômếch nhé, để không gặp một chuyện gì tương tự như thế. Nếu không, khi ấy cháu sẽ chẳng còn muốn rời bỏ Ôxtralia nữa đâu.
Tômếch đưa mắt nghiêm trang nhìn ông Bentley và khẽ nói:
– Ai biết đâu được, rất có thể những vị phù thủy như vậy vẫn tồn tại. Và không chỉ riêng ở Ôxtralia đâu bác ạ. Dẫu vậy, nơi đây sẽ chẳng thể có điều gì đe dọa thủy thủ trưởng Nôvixki, cha cháu và ngay cả cháu nữa. Vị phù thủy của thành Vacsava đã ràng buộc chúng cháu bằng sợi chỉ của mình từ lâu rồi.
Ông Bentley trầm ngâm suy nghĩ.
– Không hiểu chúng ta có được gặp những người rừng bụi ấy không hả bác?
– Chúng ta sẽ phải đi qua gần những vùng có quặng vàng, – ông Bentley đáp. – Rất nhiều người tìm vàng không may đã trở thành bushman. Vì vậy rất có thể chúng ta có dịp được gặp họ.
– Cháu cũng muốn tìm thấy vàng tại Ôxtralia như ông Xtsêlexki – Tômếch khẽ thì thầm.
– Nếu vậy cháu sẽ làm gì với số vàng ấy? – ông Bentley mỉm cười hỏi lại.
– Cháu sẽ cho xây dựng lại Vacsava một vườn thú tuyệt đẹp – Tômếch nói ngay, không cần suy nghĩ.
Thời gian trôi mau trong những cuộc chuyện trò như vậy. Trước khi Tômếch thấy mệt vì quãng đường dài cưỡi ngựa, nó đã trông thấy nhà ga Uynxania.
Trong hai ngày tiếp đó, lũ thú và những người áp tải chúng lên tàu tới cảng Ôguxt. Những người còn lại trong đoàn săn thú cũng lên tàu nhưng đi về hướng đông nam.
Càng đi xuôi về phía nam, Tômếch càng có dịp ngắm không biết chán quang cảnh kỳ thú với vẻ đẹp luôn luôn thay đổi. Những khóm cây nhỏ và bụi cây thưa thớt trải trên thảo nguyên mênh mông, thảm thực vật nơi đây tươi tốt và phong phú hơn hẳn. Đã có thể gặp thường xuyên hơn những đàn cừu đông đúc và những đàn trâu bò đang bình yên gặm cỏ trên thảo nguyên.
Sau ba mươi sáu giờ tàu, các nhà săn thú xuống tàu tại ga Phobex, một thị trấn miền núi hẻo lánh, như nằm trên cạnh đáy của một hình tam giác, tạo nên bởi sông Murumbitgi và phụ lưu Lachlan của nó. Phía đông thị trấn, dưới chân một dãy đồi cao có rừng cây che phủ, trải rộng những cánh đồng xanh tốt bao la; về phía tây là vùng đất của ảo ảnh và khô hạn, đồng thời cũng là một vùng chăn nuôi rộng mênh mông, mà giá trị của chúng lệ thuộc vào lượng nước của những cơn mưa đỏng đảnh rơi xuống vùng này. Chính trên những vùng đồng cỏ mênh mông đó, những người chăn nuôi Ôxtralia chăn thả những đàn gia súc, họ có thể trở nên giàu có rất nhanh chỉ sau một vài năm nếu như trời không tiếc nước, song cũng có thể khánh kiệt nếu hạn hán kéo dài.
Những người săn thú không để mất thì giờ lên đường tiến về phía đông nam thị trấn Phobex. Chẳng bao lâu sau họ lọt vào một vùng thảo nguyên mà đôi nơi có xen những khu rừng gai hoặc rừng cây bụi. Gần một nguồn suối nhỏ, Tôny tìm thấy dấu chân của những con cănguru xám lớn chuyên sống trong rừng. Vì thế, ông Vinmôpxki ra lệnh hạ trại bên bờ một con suối chảy len lỏi giữa những khu rừng gai thấp lè tè. Trước khi hạ trại, những người săn thú sục sạo kỹ lưỡng các bụi cây chung quanh để tránh loài rắn độc thường làm ổ tại đó.
Cũng ngay ngày hôm ấy Tôny đã tìm ra chỗ uống nước của một đàn cănguru xám. Tômếch thích thú theo dõi công việc chuẩn bị cho cuộc săn tiếp theo. Vì lũ cănguru này kiếm ăn ban đêm nên cuộc săn sẽ bắt đầu lúc sáng sơm.
Trời hãy còn tối mịt mà mọi người trong trại đã thắng ngựa. Dưới ánh trăng, ông Vinmôpxki chia các kỵ sĩ thành hai nhóm. Một nhóm đi men theo rìa khu rừng cây bụi, có nhiệm vụ tiến đến tận nơi uống nước của lũ cănguru, nhóm thứ hai nhận nhiệm vụ di chuyển sang bờ suối bên kia để tạo thành vòng vây, vây kín đàn cănguru, ngăn không cho chúng chạy trốn.
Tômếch cùng với cha thuộc nhóm thứ hai. Vừa sang được bờ suối bên kia, họ liền cho ngựa phi nước đại, để chiếm lĩnh vị trí đã định đúng giờ cùng lúc với nhóm thứ nhất. Tômếch đang phi ngựa dẫn đầu đoàn chợt kìm ngựa lại.
– Chỗ thú uống nước đã gần rồi – anh nói. – Tôi đi kiểm tra xem có lũ cănguru ở đó không.
Khoảng một giờ sau, anh từ trong bụi cây bò ra, báo tin đàn cănguru đang ăn bên bờ suối.
– Ta phải đợi lúc mặt trời lên, chứ trong ánh trăng mờ ảo thế này khó lòng thành công được – ông Vinmôpxki bảo, rồi lo lắng hỏi lại: – Liệu lũ cănguru có rời xa nguồn nước trước lúc trời sáng không?
– Không lo đâu, trời sắp sáng ngay bây giờ – Tôny đáp.
Họ xuống ngựa. Chung quanh im ắng như tờ. Dường như thiên nhiên đều đang chìm trong một giấc ngủ say sưa. Đột nhiên có tiếng chuông khe khẽ vang lên gần đó.
– Gia súc đang gặm cỏ ở gần đây, con đầu đàn bao giờ cũng đeo chuông ở cổ – Tôny thì thào.
– Lạ thật, sao lũ cănguru lại sống gần đàn gia súc nhỉ, – ông Vinmôpxki nhận xét. – Anh có chắc chắn trông thấy chúng không?
– Lũ cănguru thích loại cỏ tốt, có vị mặn – Tôny khẳng định. – Chúng không sợ gia súc đâu.
Trong lùm cây gần đó chợt vang lên một tiếng kêu lảnh lói, thê lương, như tiếng kêu từ giã cõi đời của một con vật sắp chết. Tômếch bất giác nép sát vào cổ ngựa.
– Bồ nông đấy – Tôny giải thích. – Trời sắp sáng rồi.
Và từ lúc ấy cho đến khi mặt trời mọc, không một tiếng động nào khuấy động bầu không khí yên lặng như chết nữa. Chẳng mấy chốc bình minh đã ửng hồng chân trời đằng đông. Khi ánh ngày vừa xua đi màn đêm, dường như được nhận một khẩu lệnh nào đó, lũ vẹt trong lùm cây gần đó đồng thanh cất lên những tiếng kêu váng óc.
– Lên ngựa ngay! – Tôny kêu lên.
Họ nhảy phắt lên lưng ngựa, phi nhanh về phía nguồn nước. Chỉ mấy phút sau họ đã đến chỗ con suối nhỏ, trên bờ bên kia có ba con cănguru lớn đang gặm cỏ. So với lũ cănguru vừa bắt được đợt trước, bọn này có thể gọi là khổng lồ. Trông thấy những người kỹ sĩ đột ngột xuất hiện, chúng kinh ngạc đứng đực ra trên hai chân sau. Ông Vinmôpxki bắn một phát súng chỉ thiên phát hiệu lệnh bắt đầu cuộc săn. Từ phía cánh rừng cây bụi chợt dậy lên tiếng hò la náo động. Đó là tiếng của toán thứ hai cũng bắt đầu lao tới đàn cănguru đang hoảng hốt trốn chạy. Chúng chạy nặng nhọc, lặc lè sau một đêm ăn no nê, rong khi những con ngựa vừa được nghỉ ngơi phi nhanh như mũi tên vừa bật khỏi nỏ. Những người kỵ sĩ nhanh chóng tiến lại gần lũ cănguru, vây chúng thành một hình bán nguyệt. Ông Vinmôpxki, chú Xmuga và các công nhân do ông Hagenbec phái đến đều sử dụng thòng lọng rất thành thạo. Chú Xmuga lao lên dẫn đầu đoàn kỵ sĩ, tiến rất nhanh đến gần một con cănguru, chỉ còn cách nó chừng mươi lăm mét. Tay phải chú giơ vòng dây thòng lọng lên cao, vung tròn mấy vòng trên đầu để lấy đà, sau đó vòng thòng lọng lao vút trên không trung, quàng trúng cổ con thú. Một cú giật mạnh kinh khủng suýt nữa thì kéo đổ cả người lẫn ngựa. Ba người kỵ sĩ gần nhất vội xông lại hỗ trợ cho chú, những người khác phi ngựa đuổi theo những con cănguru đang chạy như gió.
Trước mối nguy hiểm, hai con cănguru xám lớn nhất đã tỏ ra rất dũng dảm. Khi nhìn thấy đồng đội bị bắt, chúng lao ngay về hai phía ngược nhau, khiến những người thợ săn cũng buộc phải chia thành hai nhóm đuổi theo. Ông Bentley, Vinmôpxki và Tômếch chạy đuổi theo một con cănguru tuyệt đẹp. Hai người đàn ông kẹp hai bên hông nó, còn Tômếch đuổi sát sau lưng, rốt cuộc con thú biết rằng nó không thể thoát nổi những người đang săn đuổi. Ông Vinmôpxki vung thòng lọng lên, con thú tinh khôn cúi đầu nhảy một bước thật lực, chiếc vòng chỉ sượt qua đầu nó. Đến lúc này con cănguru mới qua mặt con ngựa của ông Vinmôpxki và phóng nhanh về phía khu rừng gần đấy. Nó dừng lại trước một cây cao su cổ thụ, phần dưới thân cây đã bị cháy gần một nửa trong một trận cháy rừng trước đó.
Những người săn thú cũng dừng ngựa ngay trước mặt con thú. Họ kinh ngạc nhìn con cănguru tuyệt đẹp, mặc dù đang ở trong tình thế tuyệt vọng nó vẫn không hề có ý định từ bỏ cuộc chiến đấu. Đứng thẳng người trên hai chân sau, tựa lưng vào gốc cây, nó đưa cặp mắt tinh khôn nhìn các địch thủ. Hai chân trước ngắn ngủn của nó run run, sẵn sàng ra đòn hoặc đẩy lui đối thủ.
Tômếch thán phục lòng dũng cảm của người chiến sĩ kỳ lạ này. Nếu như có quyền, cậu bé sẽ để cho con thú chạy thoát vào khu rừng cạnh đấy như một phần thưởng tặng cho lòng can đảm của nó. Nhưng ông Bentley vốn giàu kinh nghiệm trong những tình thế tương tự nên không bị ảnh hưởng bởi tình cảm của hai người đồng đội. Ông nhảy phắt xuống ngựa, cầm vòng thòng lọng trong tay, gọi ông Vinmôpxki đến giúp. Ông đưa cho bạn một đầu dây, rồi ông cầm đầu dây kia chạy vòng chung quanh cây cao su, bằng cách đó trói chặt con thú đang giãy giụa cố thoát khỏi dây quấn vào gốc. Chỉ vài phút sau, con cănguru đã chịu đứng yên.
– Rất may là cạnh đây không có hồ nước hoặc một vũng nước lớn nào cả. Khi bị đuổi, lũ cănguru xám có thể nhảy xuống nước trốn, chỉ nhô đầu và chân trước lên khỏi mặt nước. Và khi đó ngay cả chó săn cũng đành chịu thua. Nhờ tầm vóc cao lớn của mình, lũ cănguru vẫn có thể đứng trên hai chân sau ngay cả ở chỗ nước khá sâu và dùng hai chân trước để đánh lại đàn chó săn, khiến chúng phải bơi vòng chung quanh để tránh đòn, – ông Bentley hào hứng giải thích.
Lúc ấy, một kỵ sĩ lạ mặt chợt phi lại gần mọi người. Đó là một người đàn ông cao lớn, ăn mặc như phần lớn những chủ trang trại chăn nuôi gia súc khác ở Ôxtralia. Ông nghiêng chiếc mũ rộng vành chào những nhà săn thú và cất giọng lịch thiệp:
– Xin chào các ngài và xin chúc mừng cuộc săn thắng lợi, tuy nhiên tôi cũng khuyên các ngài không nên vất vả làm gì thêm nữa mà nên bắn chết ngay con thú gây hại đã bị trói kia đi.
– Chúng tôi không có ý định giết chết con vật tuyệt đẹp thế này – ông Vinmôpxki phản đối. – Chúng tôi muốn đưa chúng về châu Âu.
– Có phải các ông là những nhà săn thú? – người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên hỏi lại.
– Ông nói đúng đó, – ông Vinmôpxki khẳng định. – Chúng tôi săn thú cho những vườn bach thú. Đồng nghiệp của tôi, ngài Bentley, là giám đốc vườn thú Menbơn.
– Rất hân hạnh được làm quen với các ông – người lạ mặt nói. – Tôi là Alan. Trại chăn nuôi của tôi ở gần đây. Tôi sẽ rất lấy làm hân hạnh nếu được các bạn ghé thăm gia đình ở cái chốn đồng không mông quạnh này. Vợ tôi chắc sẽ rất vui được gặp các bạn.
Những nhà săn thú chào hỏi ông Alan, Tômếch không ngần ngại đặt cho ông một câu hỏi:
– Sao bác lại gọi một loài thú dũng cảm như thế là có hại?
– Tôi không phản đối là cănguru xám rất can đảm và hăng đánh nhau, nhưng chúng sinh sản quá nhanh. Chúng ăn hết thứ cỏ tuyệt vời dành cho đàn gia súc của tôi. Từ khi những người dân bản xứ và loài thú hoang đingô di chuyển xa dần về phía tây, lũ cănguru phát triển nhanh như nấm mọc sau mưa rào. Vì thế giữa những người chăn nuôi gia súc và lũ cănguru đã diễn ra một cuộc tránh đấu sống còn. Nếu chúng tôi không tiêu diệt chúng, thì chẳng bao lâu nữa chúng sẽ buộc chúng tôi rời bỏ chốn này – ông Alan giải thích.
– Chí ít con cănguru mà chúng tôi vừa bắt được sẽ không thể gây hại cho ông nữa – ông Vinmôpxki góp chuyện.
– Tôi thấy hình như các bạn của các ông đang đến thì phải – ông Alan nói.
Đó là thủy thủ trưởng Nôvixki và chú Xmuga. Họ vừa nhảy xuống ngựa, ông Vinmôpxki liền giới thiệu ông Alan với các bạn, và ông này một lần nữa lại ngỏ lời mời.
– Bây giờ chúng tôi còn phải thu xếp cho lũ cănguru vừa săn được, – ông Vinmôpxki nói. – Các bạn của chúng tôi cũng bắt sống được một con. Cần phải vận chuyển chúng đến trại nằm gần đây. Nhưng ngay ngày mai nhất định chúng tôi sẽ rất hân hạnh được ghé thăm gia đình.
– Chúng tôi sẽ đợi. Trại của tôi nằm ở phía hạ lưu con suối này, ngay sát bìa rừng, – ông Alan nói, sau đó ông từ biệt mọi người.
Chẳng mấy chốc chiếc xe chở những cái cũi lớn đã lăn bánh tới. Con cănguru chống cự quyết liệt trước khi bị nhốt vào chuồng, nhưng với sự nỗ lực chung, những nhà săn thú đã đưa được chúng vào cũi và chuyển lên xe. Con cănguru bị chú Xmuga săn được cũng cùng chịu chung số phận. Mọi người trở về trại. Phần ngày còn lại họ dành để bàn kế hoạch cho cuộc săn tiếp theo.
Buổi tối, ngay sau khi đi nằm, họ chợt nghe có tiếng vó ngựa. Ở vùng thảo nguyên không đường của Ôxtralia này, mọi cuộc viếng thăm đều là chuyện hiếm hoi, nên mọi người đều bật dậy. Họ ném thêm cành khô vào đống lửa. Người kỵ sĩ dừng ngựa rất gấp ngay bên cạnh lều của đoàn thợ săn. Đó chính là ông Alan. Vẻ lo lắng hiện trên nét mặt ông báo trước cho mọi người biết rằng ông mang đến một tin chẳng lành.
– Tôi rất xin lỗi là quấy quả các bạn khi đang nghỉ, nhưng rất tiếc là tôi buộc phải xin các bạn giúp một tay – ông Alan nói một hơi. – Xanli, đứa con gái mười hai tuổi của tôi, ra khỏi nhà từ chiều và đến giờ này vẫn chưa trở về. Nó đã chơi ở gần các lùm cây. Chắc nó đã bị lạc trong rừng gai. Chúng tôi phải sục tìm khắp vùng rộng lớn này để tìm bằng được cháu.
Không cần đợi giải thích thêm, những người thợ săn nhanh chóng mặc quần áo, ông Alan vội ngăn họ lại, ông bảo:
– Việc tìm cháu sẽ bắt đầu từ lúc trời tảng sáng. Lúc này những người làm công của tôi đang đi báo tin cho các chủ trại láng giềng. Phải đến gần sáng mới tập hợp được đủ người để có thể tiến hành tìm kiếm trong khu rừng gai quanh vùng. Trong bóng đêm dày đặc thế này, chúng ta chẳng thể làm gì được để tìm cháu. Xin các bạn có mặt ở trang trại của tôi trước khi trời sáng.
– Tôny biết rất kỹ địa bàn vùng này, tôi sẽ có thể đi cùng anh ta giúp ông báo tin cho các chủ trại láng giềng ngay bây giờ – chú Xmuga đề nghị.
– Nếu ông tin chắc là sẽ không bị lạc đường thì xin nhờ ông hãy đến báo tin cho trang trại cảu ông Braonơ, nằm cách trại của tôi khoảng mười lăm cây số, – ông Alan trả lời. – Phần lớn đường đi chạy dọc theo ven rừng gai. Tôi sẽ giải thích rõ hơn cho ông trên đường về trang trại của tôi. Còn các bạn xin hãy có mặt trước lúc trời sáng.
Tôny và chú Xmuga nhanh nhẹn mặc quần áo và thắng ngựa, cùng ông Alan ra đi. Thủy thủ trưởng Nôvixki ngạc nhiên trước hành động của người chủ trang trại, hỏi lại:
– Không hiểu đầu óc ông ta có bình thường không nhỉ? Làm sao có thể chờ đến sáng mới bắt đầu đi tìm đứa trẻ lạc kia chứ?
– Hành động của ông Alan không phải không có lý – ông Bentley trả lời. – Bọn trẻ sống gần các rừng cây bụi hoặc rừng gai bị lạc là chuyện khá phổ biến ở chỗ chúng tôi. Vì thế các chủ trại rất giàu kinh nghiệm trong việc tổ chức tìm kiếm. Anh có thể yên tâm rằng ông Alan đã sục tìm rất kỹ quanh những khu vực gần nhà, trước khi kêu gọi mọi người giúp đỡ. Chính lúc này tin tức về đứa trẻ bị lạc đang được truyền từ trại này sang trại khác. Tất cả đàn ông sẽ dừng ngay mọi việc đang làm để tham gia cuộc tìm kiếm. Không một cư dân nào của Ôxtralia lại không giúp đỡ láng giềng của mình trong tình thế này. Trước khi trời sáng các chủ trang trại sẽ tụ tập về đây và họ sẽ sục tìm mọi lùm cây. Chứ đêm tối thế này thì không có cách gì tìm cô bé được.
– Nhưng cô bé Xanli chắc đang rất sợ hãi trong hoàn cảnh này, – Tômếch nóng ruột thốt lên.
– Dĩ nhiên, chuyện này chẳng phải là dễ chịu đối với cô bé, – ông Bentley thừa nhận. – Nhưng mặc dù vậy cậu cũng nên biết rằng những đứa trẻ ngay từ nhỏ đã sinh sống trong vùng rừng cũng không đến nỗi quá kinh khủng, kể từ khi lũ chó hoang đingô rời bỏ nơi này ra đi.
– Thế cô bé ấy sẽ làm gì nếu gặp rắn? – Tômếch hỏi lại vì nó vốn rất sợ rắn.
– Đúng là ở đây rất nhiều rắn, – ông Bentley trả lời. – Nhưng rất may là những trường hợp bị rắn cắn xảy ra không thường xuyên lắm. Ngay đến trẻ con của các chủ trại cũng biết một điều sơ đẳng: cách duy nhất để thoát chết khi bị rắn cắn là dùng dao rạch vết cắn cho nọc chảy ra ngoài.
– Thôi đi bác! Rất có thể bọn trẻ Ôxtralia không chết khiếp trong rừng như một kẻ nhát gan, – thủy thủ trưởng nói bộc trực. – Nhưng xin bác chớ có kể những chuyện vớ vẩn như thế, nói xin lỗi. Tôi chẳng bao giờ tin rằng một đứa con gái mới mười hai tuổi đầu lại có thể tự rạch thịt da mình. Nếu như lúc này chúng ta không thể làm được điều gì để giúp cho cô bé, thì tốt nhất là ta hãy chợp mắt một lát đã.
– Thủy thủ trưởng nói có lý đấy, bàn bạc thêm cũng chẳng thể giúp được gì, – ông Vinmôpxki đồng tình. – Tốt nhất chúng ta hãy ngủ lấy sức cho cuộc tìm kiếm ngày mai.
Lần thứ hai trong buổi tối hôm ấy, những người săn thú lại chui vào lều. Tômếch trăn trở rất lâu không sao chợp mắt. Nó nghĩ mãi về cô bé Xanli bị lạc trong rừng. Nhớ lại cây chuyện của ông Bentley về nhà thám hiểm nổi tiếng Xtsêlexki, người suýt nữa cũng bị mất mạng trong một khu rừng gai bạt ngàn, sống lưng nó chợt có một cơn ớn lạnh chạy dọc khi nghĩ đến số phận của cô bé đáng thương. Nó thiếp đi rất muộn, nhưng ngay trước khi trời sáng, nó dậy cùng lúc với mọi người trong đoàn và lập tức thắng yên cương cho con ngựa pôny của mình.
– Tômếch, tốt nhất con hãy ở lại trông trại, – cha nó quay lại bảo con, khi nhìn thấy vẻ nóng ruột của nó.
– Tôi cũng nghĩ thế, – ông Bentley ủng hộ. – Không nắm được địa hình vùng này, Tômếch sẽ dễ bị lạc trong khu rừng gai bạt ngàn.
Phải nói thực tình sau một đêm mất ngủ, Tômếch cũng không khoái chuyện phải lần mò trong rừng rậm lắm, nhưng nhận xét của người lớn chạm đến lòng tự ái của nó. Nó đáp ngay:
– Cùng lắm thì cháu sẽ không đi cùng mọi người vào rừng. Nhưng có thể cháu sẽ có ích cho mọi người ở trang trại, khi mà tất cả đàn ông đều vào rừng tìm kiếm.
– Có thể con nói có lý, – ông Vinmôpxki đồng tình. – Nhưng con phải hứa với ba là sẽ không làm chuyện gì vớ vẩn đấy nhé. Mọi người phải đi tìm cô bé Xanli cũng đủ mệt lắm rồi!
– Ô, chắc chắn là con sẽ chẳng làm chuyện gì ngốc nghếch đâu, ba ạ. – Tômếch lầu bầu đáp lại, nó không thích người ta bắt nó phải hứa những chuyện như thế chút nào.
Ông Vinmôpxki cử hai thủy thủy ở lại canh trại, rồi mọi người trong đoàn thắng ngựa lên đường đi thẳng đến trang trại của ông Alan. Đến đó, họ gặp Tôny và Xmuga cùng khoảng hai mươi người đàn ông sinh sống trong vùng. Mọi người lập tức bàn kế hoạch tìm kiếm. Và lúc rạng đông, cả đoàn bắt đầu lên đường, kéo thành một hàng dài tiến vào khu rừng gai dày đặc.