Tômếch thét lên vì đau nhưng cậu không bị ngất đi. Khi cả hai cùng lăn xuống khỏi mép đá, cậu vẫn ghì chặt lấy địch thủ. May mắn làm sao, lúc rơi xuống, thằng bé In-đi-an lại nằm phía dưới nên Tômếch không bị đập trực tiếp xuống mặt đá. Cậu chỉ cảm thấy đau buốt ở cánh tay đang ôm vòng qua lưng địch thủ. Sau một lúc cố gắng hết sức, cậu rút được hai bàn tay đẫm máu ra khỏi lưng thằng bé. Da mu bàn tya bị cào xước và rách nát. Vừa xuýt xoa vì đau đớn, cậu vừa cố gắng duỗi những ngón tay ra. May thay, đó chỉ là những vết tổn thương ngoài da mà thôi, và Tômếch quên ngay những đau đớn ấy khi thấy thằng bé da đỏ đang nằm bất động.
Cậu lo lắng cúi xuống thằng bé Na-vai bất tỉnh. Một dòng máu rỉ ra từ phía dưới cái đầu ngả trên phiến đá. Tômếch thận trọng nâng đầu nó lên. Thằng bé In-đi-an bị toạc da gáy nhưng nhờ có mớ tóc dày tết lại thành bím nên lực va chạm cũng giảm đi, không thấy thương tổn đến sọ não. Tômếch lại xem xét kỹ thân hình bầm tím của thằng bé da đỏ và cũng không tìm thấy vết thương trầm trọng nào khác ngoài mắt cá chân phải bị biến dạng và sưng phồng lên.
Tômếch lập tức xé những mảnh áo sơ-mi đã bị rách tơi tả thành từng dải dài, dùng một dải băng cái đầu đang rỉ máu của kẻ bất tỉnh, rồi sau đó quấn băng vào bàn chân đang sưng vù của nó. Thằng bé In-đi-an khẽ rên lên.
“Mày đã thấy hết những hậu quả của việc mày làm chưa, hả? – Tômếch lẩm bẩm. – Quỷ quái gì sai khiến mày đánh nhau chí chết thế không biết?”.
Thằng bé In-đi-an vẫn nằm bất động, Tômếch gắng tìm cách cứu giúp địch thủ đang bị thương. Từ chỗ này lên đến đỉnh núi là cả một vách đá dựng đứng cao chừng mười mét, còn để xuống được chân núi thì phải vượt qua một sườn dốc rải đầy đá vụn.
Chẳng nghĩ ngợi gì lâu, cậu quyết định đặt thằng bé In-đi-an lên vai phải, để đầu nó ngả lên lưng cậu, còn hai chân về phía trước, rồi cậu thận trọng lần từ phiến đá xuống sườn núi dốc.
Đi xuống thật chẳng dễ dàng gì, Tômếch phải vất vả lắm mới dò tìm được những chỗ tựa khá chắc chắn để đặt gót chân. Lúc thì cậu tuột ào xuống cùng với cả một thác những hòn đá nhỏ, lúc thì cậu phải bò bốn chân, cuối cùng mệt lả người. Mấy lần cậu phải ngồi bệt xuống để lấy hơi. Thằng bé In-đi-an vẫn nằm bất động trên vai và càng ngày càng có vẻ nặng hơn, song Tômếch không hề chú ý gì đến bản thân, đến sự mệt nhọc và những chỗ sây sát trên thân thể. Cậu nghiến chặt răng lại, chỉ lo lắng giữ gìn cho địch thủ đang thiêm thiếp. Cuối cùng, nhờ những nỗ lực phi thường, cậu đã vượt qua được cả sườn dốc xuống đến tận chân núi. Cậu đặt thằng bé In-đi-an xuống đất rồi đi tìm một nhánh cây xương rồng to tướng hình bầu dục. Sau khi dùng dao cắt bỏ gai, cậu chặt thân cây mập mạp ấy và mang lại chỗ thằng bé Na-vai đang nằm trên mặt đất. Nhanh nhẹn tước vỏ cây xương rồng, cậu lấy lõi vắt nước xuống mặt thằng bé da đỏ đang bị ngất. Phải một lúc lâu sau, trên mặt thằng bé Na-vai mới xuất hiện những nét nhăn đau đớn. Nó mở mắt ra, song vừa nhìn thấy Tômếch đang cúi xuống nhìn, nó liền nhắm nghiền mắt lại. Hình như nó lại bị ngất đi một lần nữa. Lát sau, nó có vẻ tỉnh hơn, rồi cuối cùng, hoàn toàn tỉnh táo, nó mở mắt nhìn chằm chằm vào khuôn mặt cậu bé da trắng.
– Nào, thế là rốt cuộc cậu đã tỉnh lại, – Tômếch lên tiếng và cố mỉm cười.
– Mày đã thắng tao, còn chần chừ gì nữa, hãy giết tao đi! – Cậu bé Na-vai thì thào.
– Ma quỷ làm cậu điên rồi hay sao không biết! – Tômếch không ghìm nổi cơn giận. – Đầu tiên thì hoàn toàn vô cớ cậu định giết tôi, bây giờ cậu lại muốn biến tôi thành một tên giết người đốn mạt!
– Chính sê-ríp Alan đã phái mày lần theo vết tao…
– Đồ ngốc! – Tômếch kêu lên. – Không ai sai tôi theo dõi cậu mà tôi cũng chẳng chiến thắng cậu bao giờ! Chỉ vì muốn nhìn ngắm vùng đất phía Mê-hi-cô, tôi mới leo lên đỉnh núi này và vô tình gặp cậu ở đây. Chẳng biết vì sao cậu lại nhảy xổ vào tôi, hai đứa chọi nhau hệt như hai chú gà say máu! Rồi hai đứa cùng lăn từ mép đá xuống vực và cậu bị va đầu vào đá. Đấy, cái “chiến thắng” của tôi là như thế đấy!
– Nhưng dù sao mày cũng ở nhà sê-ríp Alan – cậu bé Na-vai nhắc lại một cách cay cú và cố gắng nhìn vào mắt Tômếch.
– Nếu như cậu biết là tôi ở nhà ông Alan thì chắc cậu cũng phải biết rõ rằng tôi chỉ vừa mới đến nhà ông ấy có vài ngày thôi. Tôi từ một đất nước bên kia biển lớn đến đây để đón một cô bé cùng đi sang nước Anh.
– Hough[1]! Mày không phải người của sê-ríp thật chứ?
– Tôi chẳng dính dáng gì với ông ta cả, – Tômếch khẳng định. – Song ta hãy quay lại chuyện của cậu, mình có thể giúp cậu được gì bây giờ? Chẳng may cậu bị ngã đau quá.
– Vậy ra người anh em da trắng của tôi không phải là người Mỹ? – cậu bé da đỏ hãy còn cố hỏi gặng.
– Mình là người Ba Lan, tổ quốc của mình ở rất xa, mãi tận phía bên kia một mặt nước lớn, – Tômếch giải thích thêm, cậu rất hài lòng vì thằng bé Na-vai đã gọi cậu là “người anh em da trắng”.
– Hough! Chắc có vị hung thần nào đó đã che mắt không cho tôi nhìn ra sự thật. Tôi phải sửa sai ngay lập tức, có thể là hay còn chưa quá muộn… – cậu bé Na-vai vừa thốt lên một cách sốt ruột vừa cố gắng đứng dậy. Song nó loạng choạng, và nếu Tômếch không kịp đỡ thì chắc hẳn nó đã bị ngã.
– Cậu làm gì thế nữa? Chân cậu đang sưng tướng lên kia kìa! – Tômếch lại nổi cáu.
– Hãy giúp tôi đi lên đỉnh núi, tôi không thể chậm một giây phút nào nữa! – cậu bé In-đi-an đáp lại, tựa vào vai bạn.
– Chúng ta không thể lên đỉnh núi bằng đường này được đâu, – Tômếch phản đối. – Tốt nhất là ta hãy đi vòng chân núi đến chỗ con đường mòn.
– Nếu người anh em da trắng của tôi muốn làm tôi tin rằng cuộc gặp gỡ của chúng ta là chuyện hoàn toàn tình cờ thì… hãy cố giúp tôi lên đỉnh núi càng nhanh càng tốt, – cậu bé Na-vai đáp lại một cách sốt ruột.
– Ha, đành vậy, ta hãy thử một keo xem sao! – Tômếch thở dài, e ngại nhìn lên sườn núi dốc đứng.
Họ lần từng bước một leo lên sườn núi. Khuôn mặt của cậu bé Na-vai tái nhợt đi vì quá gắng sức, người nó đầm đìa mồ hôi, chốc chốc nó lại ngã xoài ra mặt đất mặc dù Tômếch đã phải dìu nó. Nó cố kéo lê bàn chân sưng vù, không kể gì đến đau đớn, không chịu dừng lại nghỉ ngơi một phút, chỉ xăm xăm leo lên đỉnh núi.
Tômếch cũng gần như hoàn toàn kiệt sức, chân cậu như rời ra, miệng thở nặng nhọc, thế mà cả hai mới chỉ leo được nửa chừng. Cậu bé In-đi-an có lẽ phải quen đến từng tấc đất ở đây nên nó không leo lên thẳng, lại đi vát theo những vạt thoải hơn mà Tômếch không thể nhận thấy. Giờ đấy, cái tảng đá bằng phẳng, nơi cả hai bị rơi xuống chỉ còn cách họ chừng vài chục mét về phía bên phải.
Càng ngày cậu bé In-đi-an càng tỏ ra lo lắng hơn. Nó bỗng ngồi bệt xuống sườn núi, bàn tay phải đưa lên cho mắt cho khỏi chói mặt trời, nhìn đăm đăm về phía thả nguyên đang lượn sóng.
– Hough! Có, có, ở phía đông kia kìa! – nó kêu lên, chỉ tay về phía ấy. Tômếch căng mắt nhìn. Ở mãi tít phía xa, trên một quả đồi nhỏ, cậu nhìn thấy một người kỵ sĩ đang nhìn về phía đỉnh núi cô độc mà cả hai đang đứng. Cậu bé In-đi-an hươ hươ hai tay, gào to lên tiếng gì đó bằng một thứ ngôn ngữ lạ, song người kỵ sĩ bí ẩn nọ vẫn đứng trơ trơ như một pho tượng đá. Chắc hẳn ông ta không thể nhìn thấy chúng trên cái nền xanh xám của sườn núi đá dốc đứng. Tômếch chợt hiểu là giờ đây giá như chú bé Na-vai lên được đến đỉnh núi, đứng trên cái tảng đá khổng lồ ấy, thì hẳn người kỵ sĩ nọ sẽ nhìn thấy hình bóng của nó nổi bật trên nền trời màu sáng.
– Có thể anh ta không nhìn thấy mà cũng chẳng nghe thấy chúng ta đâu, – Tômếch bảo bạn.
– Bắn chỉ thiên đi! Chắc chắn ông ta sẽ nghe thấy tiếng súng! – cậu bé Na-vai kêu lên. – Nhanh lên, nhanh lên kìa! Nhìn kìa, ông ta đang bỏ đi!
Quả vậy, người kỵ sĩ ở phía xa đang rời khỏi quả đồi, ngựa của ông ta càng ngày càng phi nhanh về phía biên giới nước Mỹ.
– Bắn đi! – cậu bé Na-vai thét lên, tóm lấy tay Tômếch.
Tômếch muốn rút súng ra nhưng tay cậu sờ phải chiếc bao da trống rỗng. – Tớ đánh mất súng rồi, có lẽ nó bị rơi khi chúng mình choảng nhau.
– Thế thì đi tìm đi, nhanh lên, không thì nhục nhã cho tôi lắm! – cậu bé In-đi-an giục bằng giọng tuyệt vọng.
Như được tiếp thêm sức, Tômếch lao về phía tảng đá, nơi cậu nghĩ là có thể tìm thấy khẩu súng bị đánh rơi. Vừa vấp ngã, vừa bò, mãi rồi cậu cũng lần đến được chân tảng đá lớn. Cậu đứng kiễng trên đầu ngón chân vươn tay cố với rìa tảng đá, song không sao với tới được. Cậu đã quá mệt để có thể tay không leo thẳng lên đó, vì vậy, cậu quyết định tìm đến cái chỗ mà lúc nãy cậu đã trượt xuống trong khi mang thằng bé In-đi-an đang bị ngất. Cậu tìm thấy ngay chỗ đó và một lát sau đã lên được phía trên tảng đá lớn.
Sau một hồi tìm kiếm, cậu thấy khẩu súng lục màu đen của mình nằm trên một đống đá ở sườn núi, cậu thốt lên một tiếng kêu vui sướng, nhặt vội khẩu súng lên. Chẳng may nòng súng bị nhét đầy đất. Trước khi cậu kịp dùng que thông nòng thông sạch đất cát trong nòng súng, thì người kỹ sĩ đang phi như gió trên thảo nguyên đã vượt quá ngang tầm ngọn núi. Tômếch vội chĩa nòng súng lên trời và bóp cò năm phát liền, song tiếc thay, người kỵ sĩ không làm sao nghe thấy tiếng súng nữa, vì ông ta đã khuất sau núi, mà tiếng nổ bị những vách đá cao chắn lại.
Tômếch hiểu ngay tình thế. Không muốn mất thì giờ nạp thêm đạn vào súng, cậu vội đút súng vào bao và chạy xuống để đỡ cậu bé In-đi-an đang gắng sức leo lên sườn núi. Sức dẻo dai của người bạn Na-vai trẻ tuổi cũng như sự bướng bỉnh muốn vượt lên đến đỉnh núi của cậu ta làm cho Tômếch rất cảm phục. Song lúc này cậu cũng vẫn giữ được sự chín chắn và nhanh trí. Không còn nghi ngờ gì nữa, cậu bé In-đi-an đến đỉnh núi cô độc này để gặp người kỵ sĩ vô danh nọ và đó chắc chắn phải là một cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng, một khi anh bạn người Na-vai đã quyết đấu sống mái với Tômếch chỉ vì nghi ngờ cậu là người theo dõi cậu ta theo lệnh của sê-ríp Alan.
Phải một lúc lâu, cả hai thiếu niên mới lại leo lên được đến đỉnh núi. Chú bé In-đi-an đã hoàn toàn kiệt sức. Vết thương trên đầu cùng cái chân bị bong gân khiến nó đau đớn vô cùng, dù rằng cho đến lúc ấy nó hầu như không để ý đến những vết thương đó. Rõ ràng suốt từ nãy đến giờ tâm trí nó hoàn toàn dành cho người kỵ sĩ bí ẩn nọ, bởi vừa lên đến đỉnh núi, nó đã vội lẩn ngay ra mép phía bắt của tảng đá nhìn xoi mói khắp thảo nguyên phía nước Mỹ.
Cả hai cậu bé cùng căng mắt cố tìm bóng dáng người kỵ sĩ, song chúng chẳng nhìn thấy gì. Chú bé In-đi-an mỗi lúc một âu sâu hơn, cuối cùng nó phá tan sự im lặng:
– Người anh em da trắng của tôi có thể tìm hộ tôi khẩu súng săn được không?
– Mình tìm ngay đây. Chắc nó vẫn dựng bên cạnh tảng đá. Người anh em da đỏ hãy chờ tôi ở đây nhé! – Tômếch đáp lại.
Cậu dễ dàng tìm thấy ngay khẩu súng săn. Đó là một khẩu súng đã cũ và chắc đã được sử dụng nhiều. Tômếch chăm chú xem xét khẩu súng vì cậu biết rằng tuy bề ngoài những khẩu súng của các thợ săn và những người da đỏ có thể không có điều gì đặc biệt, song nhiều khi chúng có những điểm ưu việt không ngờ. Trên cái nòng dài có nhiều vết khắc, theo phong tục của miền Viễn Tây thì đó có thể là số kẻ địch đã bị khẩu súng này hạ thủ. Tômếch tính các vết khắc, có cả thảy mười ba vết nằm cạnh nhau, rồi cách một quãng lại có thêm bốn vết nữa.
Cậu bé In-đi-an này hãy còn trẻ, nên chắc hẳn những vết khắc trên nòng súng không phải đánh dấu những chiến thắng của cậu ta. Chắc cậu bé được thừa kế khẩu súng này từ một chiến sĩ xuất sắc nào đó.
Chỉ riêng việc có được một vũ khí như thế cũng đã chứng tỏ cậu thiếu niên người Na-vai này không phải là kẻ tầm thường trong bộ lạc của mình.
Nghĩ như thế, Tômếch quyết định sẽ quan sát người bạn mới kỹ lưỡng hơn. Cậu nhẹ nhàng nương theo những phiến đá để tiến lại gần người bạn Na-vai mà không bị nó chú ý. Cậu bé người In-đi-an đang ngồi bệt trên mặt đất, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, bàn tay ôm chặt lấy mắt. Tômếch rất đỗi ngạc nhiên: phải chăng người bạn da đỏ này đang khóc? Điều đó rất khó tin, bởi những giọt nước mắt không phù hợp chút nào với cách cư xử rất đỗi can trường vừa rồi của anh bạn. Song quả thực Tômếch không nhầm: những giọt lệ đang rỉ ra giữa những ngón tay úp chặt vào mắt. Cậu bé Na-vai đang khóc! Đó là những giọt lệ đau đớn hay những giọt lệ tuyệt vọng, chán chường? Tômếch không thể đoán nổi, song cậu hiểu rằng nhìn người khác trong phút giây yếu mềm của anh ta là một hành động không cao thượng. Vì vậy cậu thận trọng lui bước và mãi một lúc sau mới tự nhiên và đàng hoàng quay lại với người bạn mới.
Cậu bé In-đi-an vẫn đang ngồi bệt trên đất. Nó đang sửa sang lại mớ tóc bị rối trong khi đánh nhau. Bên cạnh nó là những mảnh áo sơ-mi mà Tômếch đã dùng để băng bó các vết thương cho nó. Khuôn mặt của cậu bé In-đi-an không có vẻ căng thẳng chút nào, nó đã hoàn toàn làm chủ những cảm xúc của mình. Nhìn thấy Tômếch nó liền lên tiếng:
– Người anh em da trắng của tôi đã tìm thấy khẩu súng săn rồi à? Hay lắm! Đến lúc rồi, tôi phải đi ngay.
Tômếch đặt khẩu súng bên cạnh người bạn da đỏ rồi nói:
– Người anh em da đỏ của tôi tháo băng ra là không tốt rồi, vết thương vẫn đang chảy máu kia kìa!
Cậu bé Na-vai ngẩng lên nhìn Tômếch. Cậu ta nhìn rất lâu vào cặp mắt của người bạn da trắng, và chắc là không tìm thấy trong đó một ánh bội phản hay xảo quyệt nào nên nó mỉm cười buồn rầu và khẽ nói:
– Người da trắng chỉ yêu người da đỏ khi ngắm nhìn xương cốt của họ trắng dần ra dưới ánh mặt trời thảo nguyên! Đối với người da trắng, mỗi người In-đi-an đều là một con chó ghẻ cố chen vào kiếm một chỗ trên mặt đất, mặt đất mà họ chỉ muốn chiếm riêng cho mình. Song người Na-vai, người A-pa-sơ và người Xi-úc-xơ lại biết nhảy vào cắn họng kẻ thù. Tôi là người Na-vai. Nếu bất kỳ một tên da trắng hay một tên cảnh sát da đỏ phục vụ cho bọn da trắng nào gặp tôi đang bị thương trên thảo nguyên thì chắc tôi sẽ bị dẫn về gặp sê-ríp như một kẻ bị tình nghi ăn cướp. Tôi nói điều đó bởi người anh em da trắng của tôi là người từ bên kia mặt nước lớn đến đây đón cô da trắng bé nhỏ và chẳng bao lâu nữa sẽ cùng cô ta đi về xứ xở của mình.
– Đã nhiều lần mình nghe nói về sự đối xử tồi tệ của người da trắng với người da đỏ, nhưng mình không thể ngờ rằng trong số các bạn cũng có cả những kẻ phản bội đang tâm làm tay sai cho bọn đô hộ. Đất đai châu Mỹ là của các bạn, nó thuộc về các bạn và là Tổ quốc của các bạn.
– Người anh em da trắng của tôi hãy còn trẻ như tôi song Đức Ma[2]-ni-tu đã ban cho bạn đầu óc rất chín chắn. Chắc người anh em da trắng của tôi đã tham gia vào Hội đồng nguyên lão của bộ lạc mình. Giá như những người da trắng khác cũng nói năng và hành động như anh thì lưỡi rìu chiến của người In-đi-an chẳng bao giờ bị đào lên để chống lại họ. Tiếc thay, không phải tất cả mọi người In-đi-an đều hiểu được sự cần thiết phải cùng nhau tự vệ. Có cả những tên phản bội. Đó quả thực là những con chó ghẻ da đỏ!
– Mình rất hiểu nỗi căm thù của cậu, vì đất nước của mình cũng đang ở trong cảnh nô lệ và ở đó cũng có những tên phản bội. Song bây giờ chúng ta phải nghĩ đến những vết thương của cậu đã. Phải đặt thêm một mẩu áo sơ-mi đệm xuống dưới cái vành giắt lông đại bàng trên đầu cậu. Khoan đã, mình sẽ giúp cậu! Nào, bây giờ thì được rồi! Còn bàn chân thì ta hãy kéo cho khỏi bong gân rồi băng lại.
Tômếch khéo léo nắn gót chân bị bong gân, sau đó băng lại bằng những mảnh sơ-mi xé ra. Mặc dù bị đau cậu bé In-đi-an hình như vẫn mải suy nghĩ về điều gì đó, mãi một lúc sau nó mới nói ra điều lo lắng của mình.
– Người anh em da trắng của tôi ở tại nhà sê-ríp Alan, nếu anh quay về mà mình mẩy xây xát, quần áo tả tơi như thế kia thì thể nào sê-ríp cũng hỏi có chuyện gì đã xảy ra. Người anh em của tôi sẽ trả lời thế nào?
– Dĩ nhiên trước hết mình phải cố gắng để ông Alan không trông thấy mình tỏng tình cảnh như thế này. Mình sẽ tìm cách gọi bạn mình là thủy thủ trưởng Nôvixki ra khỏi nhà, mang theo áo sơ-mi mới cho mình thay.
– Có phải người anh em của tôi muốn nói tớ người đàn ông da trắng khổng lồ cũng đang ở tại nhà của sê-ríp hay chăng? – cậu bé Na-vai hỏi.
– Vậy là cậu cũng đã nhìn thấy cả thủy thủ trưởng Nôvixki? Làm sao cậu thấy được cơ chứ? – Tômếch hỏi lại, cậu bắt đầu nghi rằng thằng bé Na-vai đã theo dõi tất cả những người ở trại của ông Alan.
– Tôi là cao bồi ở nhà sê-ríp, – cậu bé Na-vai đáp gọn.
– À, ra thế! – Tômếch bật cười. – Vậy thì chúng ta có thể cùng quay về nhà.
– Không, tôi đang trông đàn súc vật ở khu chăn nuôi gần đây. Thêm nữa, nếu sê-ríp nhìn thấy chúng ta đi cùng nhau thì ông ta dễ dàng đoán ra sự thật. Người anh em da trắng của tôi định giải thích thế nào cho bạn mình về bề ngoài không bình thường thế này?
– Đừng lo chuyện đó. Mình sẽ nói với chú Nôvixki là con ngựa này hất mình vào một cây xương rồng gai. Thủy thủ trưởng Nôvixki là một người bạn tuyệt diệu. Không bao giờ chú ấy hỏi nhiều hơn những điều cần thiết đâu.
– Còn cô da trắng nhỏ bé thì sao? – cậu bé In-đi-an tò mò hỏi.
– Nếu như cậu muốn nói đến Xanli thì cậu có thể hoàn toàn yên lòng. Cô bé tin tất cả những gì mình nói, còn bà mẹ thì lại hết sức tốt bụng và rất quý mến mình. Cả hai trước kia sinh sống ở một đất nước rất xa xôi, gọi là Ôxtralia. Trại của họ cũng nằm trên thảo nguyên, bên ria một khu rừng bạt ngàn. Một lần cô bé ấy lạc trong khu rừng đó, những người chủ trại quanh vùng kéo đi tìm nhưng không sao tìm ra. Mình gặp may, tình cờ tìm thấy cô bé với cái chân cũng bị bong gân như cậu bây giờ, nên cô ấy không thể tự đi về nhà được. Bác gái Alan và Xanli chắc chắn sẽ làm tất cả những điều mình yêu cầu. Cậu đừng lo gì cả!
– Thế tại sao người anh em da trắng của tôi lại đi chu du đến nhiều xứ sở xa xôi như thế?
– Cùng với cha mình và hai người bạn của cha, mình đi săn bắt các loài muông thú để đem về châu Âu bán. Những loài muông thú này sau đó được nhốt trong các chuồng đặc biệt để cho mọi người đến xem.
– Hough! Đại Bàng Đỏ đã từng nghe nói về những người chuyên đi bắt sống thú dữ.
– Người anh em của tôi có cái tên đẹp quá! – Tômếch nhận xét. – Mình có thể gọi người anh em là Đại Bàng Đỏ được chứ?
– Mọi người đều gọi tôi như thế, – cậu bé Na-vai đáp. – Chúng mình đi lấy ngựa đi!
– Đại Bàng Đỏ không nên động đậy cái chân đau nhiều đâu. Để mình cõng cậu. Cầm lấy khẩu súng và ngồi lên đi! – Tômếch đề nghị.
Sau một thoáng ngần ngừ, cậu bé In-đi-an bám lên vai Tômếch. Hai đứa đi theo con đường mòn xuống núi. Tômếch vốn rất khỏe, song bị mệt mỏi vì những sự kiện xảy ra buổi sáng hôm đó nên cậu phải dừng lại nhiều lần để nghỉ lấy hơi rồi mới đến được chỗ buộc ngựa. Con ngựa ngửi thấy hơi người liền hí lên và gõ móng xuống đất. Chú bé Na-vai huýt một tiếng sáo, con ngựa lại hí lên tiếng nữa và bình tĩnh lại.
Chú bé In-đi-an tụt xuống ngay sát ngựa, rồi sau khi cởi dây cương ra khỏi cành cây, nó bám bờm ngựa nhanh nhẹn nhảy lên yên.
– Người anh em da trắng của tôi hãy ngồi sau lưng tôi, – nó đề nghị.
– Không cần đâu, mình buộc con ngựa của mình cách đây vài chục bước thôi, – Tômếch đáp.
Một lúc sau cậu tìm được chỗ buộc con ngựa của mình và cũng nhảy lên yên. Hai đứa phi nhanh từ chân núi ra thảo nguyên bao la. Rồi chúng im lặng phi nước kiệu. Sau nửa giờ đi ngựa, cậu bé Na-vai ghìm ngựa lại.
– Đến đây đường của chúng ta rẽ về hai ngả, – nó nói. – Người anh em da trắng của tôi đi về phía tây bắc còn tôi lại phải đi thẳng lên phía bắc, bãi chăn nuôi nằm phía đó.
– Sắp tới Đại Bàng Đỏ sẽ có mặt ở trại của ông Alan chứ? Mình muốn nói với cậu nhiều chuyện, – Tômếch nói.
– Tôi sẽ cố gắng để ít lâu nữa tìm gặp người anh em da trắng của tôi.
– Thế thì mình sẽ chờ. Thôi, xin chào nhé!
Tômếch thân mật vẫy tay rồi quay ngựa về hướng tây bắc.
Cậu bé In-đi-an vẫn ngồi yên trên lưng ngựa, hơi khom mình về phía trước, hai tay giữ chặt khẩu súng săn có những vết khắc trên nòng súng dài. Khi cậu bé da trắng đã phi cách một quãng, ngón tay trỏ của cậu bé In-đi-an từ từ chạm vào cò súng.
“Người chết không bao giờ lộ bí mật”, – nó nghĩ thầm và giương súng lên vai.
Khi sắp kéo cò nó chợt nghĩ ra rằng cậu bé da trắng đã không hỏi một lời nào về người kỹ sĩ vô danh kia cả.
“Chính mình muốn giết nó trước, còn nó thì không những không lợi dụng thế thắng của nó mà lại còn giúp mình như một người bạn. Thằng bé da trắng này không hay biết gì về Tia Chớp Đen, nghĩa là nó chẳng biết gì mà lộ ra cả”.
Nhẹ nhõm trong lòng, nó từ từ hạ súng xuống, miệng khẽ thầm thì:
“Ôi, Ma-ni-ta vĩ đại! Con căm thù bọn da trắng và con sẵn sàng ngã xuống trong cuộc chiến đấu với chúng. Nhưng con không thể giết một người đã đối xử với con một cách cao thượng đến thế”.
[1] Tiếng kêu tỏ sự ngạc nhiên hay ý đã quyết của người In-đi-an. (Đọc là “Hâu”).
[2] Ma-ni-tu là Đức chúa trời của người In-đi-an