Xanli vui sướng không thể ngồi yên một chỗ khi hai ngày trước hội rô-đê-ô, Tômếch tuyên bố là sẽ mặc bộ quần áo dân tộc của người In-đi-an tham gia cuộc đua ngựa mười dặm. Thủy thủ trưởng, sê-ríp và bà Alan chế giễu cậu về ý định đó, nhưng cô bé Xanli đầy nhiệt tình không để cho ảnh hưởng của họ làm thay đổi ý định của Tômếch. Bà Alan và sê-ríp nhìn nhận ý định đó như một biểu hiện của trí tưởng tượng phong phú của tuổi trẻ. Chỉ có Xanli và thủy thủ trưởng – những người bạn tin cẩn của Tômếch – là biết rõ rằng cậu có quyền mặc y phục dân tộc của người In-đi-an.
Cũng cần nói thêm là sau khi đi săn đại bàng về, Tômếch đã được người bạn trẻ Na-vai chuyển lời mời đến trại định cư một lần nữa. Lần này, thủ lĩnh Mắt Dài triệu tập một cuộc họp để cùng nhau làm mũ đội đầu danh dự cắm lông đại bàng cho Tômếch theo đúng phong tục của người In-đi-an.
Đó là cả một nghệ thuật.
Thứ trang sức trên đầu người In-đi-an mà người ta thường gặp hơn cả được làm như sau, trước hết người ta làm một cái mũ bằng da hươu mềm và đính lông đại bàng vào mũ. Sau đó, người ta đính thêm vào đó một dải dài cũng bằng da hươu, nếu số lượng lông khá nhiều. Đôi khi người chiến sĩ có nhiều “cúp” đến nỗi phải đính thêm những hai dải. Sau khi làm xong mũ, người ta đưa cho người chiến sĩ từng chiếc lông đại bàng một, và anh ta phải thuật lại vì sao mình được thưởng chiếc lông ấy. Tùy theo số “cúp” được thưởng, bộ lông mũ có khi nhiều đến hàng bốn năm mươi chiếc, vì vậy lễ gắn lông lên mũ cũng kéo dài rất lâu, có khi hàng mấy tuần lễ liền. Miếng bịt trán thường được làm bằng da chồn có đính thêm những hạt cườm.
Người ta tin rằng những đức tính của con vật nhanh nhẹn và tinh ranh biết khéo léo trốn khỏi cuộc săn bắt sẽ truyền lại cho người chiến sĩ. Mỗi chiếc lông điểm tô cho mái đầu sẽ nhắc cho anh ta nhớ lại việc giết chết một địch thủ hay một hành động phi thường nào đó. Nếu như người chiến sĩ cắt được chỏm tóc của kẻ thù thì người ta đính thêm vào mũ một túm lông ngựa nữa.
Theo phong tục của bộ lạc Ô-ma-ha và những bộ lạc của người In-đi-an vùng đồng bằng, người ta làm cho Tômếch một vật trang sức mang trên đầu, thường được người da trắng gọi một cách thông tục là vật “gây tiếng ồn khi nhảy múa”.
Đó là một vành đai làm bằng da hươu có đính một túm lông đại bàng nằm ở phía gáy. Đồ trang sức này chỉ những chiến sĩ nhiều công trạng mới được mang, những chiến sĩ này thường lập thành những đơn vị đặc biệt hay lực lượng cảnh sát của bộ lạc.
Trong bữa tiệc, thủ lĩnh Mắt Dài cũng báo cho Tômếch biết rằng, Hội đồng nguyên lão của bộ lạc đã công nhận cậu là thành viên danh dự của bộ lạc Mê-xca-le-rô của người A-pa-sơ. Đồng thời để ghi nhớ sự kiện đó, ông đã trao cho cậu một bộ y phục của người In-đi-an, gồm một áo gi-lê chẽn và một quần dài bằng da hươu có trang điểm thêm nhiều dải tua rua và hạt cườm, một đôi dép da mềm đính lông nhím, một dây lưng bằng vải dệt và một cái khăn quàng cổ sặc sỡ rất hay dùng ở Miền Viễn Tây này.
Ngoài những vinh hạnh ấy, thành viên mới của bộ lạc còn được tặng thêm một cái tên In-đi-an là Nah-tah ni yezi zi, có nghĩa là Thủ Lĩnh Nhỏ. Tự hào vì vinh dự, Tômếch đã quyết định sẽ mặc bộ quần áo đẹp đẽ ấy để lần đầu tiên trong đời tham gia những cuộc đua ngựa trong kỳ hội rô-đê-ô. Hội rô-đê-ô sẽ được tổ chức trong vài ngày tới tại thành phố Đa-glơx một thành phố nhỏ nằm ở bang A-ri-dô-na, ngay sát biên giới Mê-hi-cô.
Tính theo đường chim bay, trại của ông Alan nằm cách Đa-glơx chừng sáu mươi cây số, vì vậy, để ngựa khỏi bị mệt, ông Alan quyết định sẽ lên đường sớm hơn một ít.
Về tham gia cuộc hội thi của các cao bồi tổ chức hàng năm lần này có các vị chủ trại ở bang A-ri-dô-na, bang Niu Mê-hi-cô, bang Tếch-dớt và cả từ Mê-hi-cô nữa. Đối với những người chăn nuôi ngựa vốn hăng máu, thì hấp dẫn nhất trong hội thi chính là cuộc đua ngựa mười dặm, người thắng cuộc sẽ được nhận giải thưởng mười nghìn đô la. Lần này có hơn hai mươi chủ trại ghi tên tham dự cuộc đua ngựa ấy, trong số đó có một tay chủ trại người Mê-hi-cô gốc Tây Ban Nha có tên là Đôn Pê-đrô. Hắn là chủ một điền sản rộng mênh mông ở Mê-hi-cô, nằm gần biên giới Hoa Kỳ, Đôn Pê-đrô chỉ ghi tên tham gia cuộc đua khi hắn ta nắm chắc phần thắng.
Sê-ríp Alan cũng là một người nuôi ngựa hăng hái, song mặt ông cũng phải sầm lại khi biết tin tay nuôi ngựa đua sành sỏi người Mê-hi-cô ấy sẽ tham gia hội rô-đê-ô năm nay. Đôn Pê-đrô là một người không thể xem thường. Vì vậy, ông cân nhắc mãi không hiểu ông có hành động đúng không khi chọn Tômếch làm tay đua cho con ngựa hay của ông. Phần lớn những tay cưỡi ngựa đua của tên chủ trại người Mê-hi-cô đều là dân In-đi-an vốn có biệt tài điều khiển ngựa. Sê-ríp chắc Tômếch không thể sánh được với họ, song nhìn thấy cậu bé đang hăng hái chuẩn bị tham gia cuộc đua, ông không muốn rút lui quyết định. Thêm nữa, việc Tômếch gần như ngay từ phút đầu tiên đã chinh phục được con ngựa dữ nết ấy cũng khiến sê-ríp thêm vững tâm.
Đoàn người ngựa của ông Alan đến thành phố Đa-glơx vào hôm trước ngày khai mạc hội thi. Sê-ríp thuê phòng riêng trong một quán rượu – nơi ông vẫn thường đến trọ trong những dịp có việc vào thành phố – cho Xanli và mẹ em. Còn bản thân thì ông quyết định sẽ không rời đàn ngựa của mình ra một bước. Theo phong tục của tất cả những người chủ ngựa tham gia cuộc đua, ông cho hạ trại ở gần thành phố. Những người hầu của sê-ríp căng lều hình tam giác, chắn bởi một cỗ xe rất dài phủ bạt và một xe ngựa bánh cao. Dĩ nhiên, Tômếch và thủy thủ trưởng cũng ở cùng với sê-ríp để canh giữ an toàn cho con tuấn mã. Ở đấy đã từng xảy ra chuyện mất trộm những con ngựa hay ghi tên tham gia cuộc đua. Đó không phải chỉ đơn thuần là “thành tích” của dân chuyên ăn trộm ngựa. Một số chủ trại nuôi ngựa muốn làm tăng khả năng thắng cuộc cho những con tuấn mã của mình đã tổ chức cướp ngựa hay của các địch thủ.
Ngoài hai người bạn thân và Đại Bàng Đỏ được cho đi cùng theo lời thỉnh cầu của Tômếch, sê-ríp còn mang theo bốn cao bồi và năm người In-đi-an tùy tung. Họ dựng riêng cho con ngựa đua một cái tàu ngựa nằm lọt vào giữa các lều trại để tránh mọi điều không ngờ có thể xảy ra.
Ngày hội rô-đê-ô đã tới. Bà Alan cùng Xanli, sê-ríp, thủy thủ trưởng, Tômếch và Đại Bàng Đỏ cùng đi một cỗ xe ngựa tiến về hướng quảng trường lớn nằm ngay sát cạnh thành phố, nơi sẽ diễn ra các cuộc đua. Những đám người đi xem hội đông nườm nượp, ăn mặc quần áo màu sắc sặc sỡ, từ bốn phương kéo về đây. Các chủ trại giàu có ngựu trên những cỗ xe ngựa bóng lộn. Đám phụ nữ mặc váy dài sột soạt đăng-ten, ngồi trong các cỗ xe đó, giương những chiếc ô nhỏ xíu che nắng. Bên cạnh đám đàn bà là các ngài chủ trại, với những khuôn mặt kênh kiệu đầy vẻ cao ngạo. Quần áo và mũ của cánh đàn ông được trang trí rất nhiều vật bằng bạc và những dải tua rua. Hông họ có những chiếc thắt lưng to bản giắt súng lục, báng súng khảm bạc và xà cừ. Đánh những cỗ xe sang trọng ấy là những người da đen hay dân In-đi-an. Các chủ trại kém thế hơn thì đi dự hội bằng những chiếc xe thường, mui trần hay có phủ vải bạt. Đám cao bồi và người In-đi-an thì cưỡi ngựa. Những giọng nói vui vẻ huyên náo cùng tiếng roi vút đen đét, tiếng ngựa hí, hòa với tiếng cồng cộc của những cỗ xe đang phóng vụt qua.
Một đám hằng hà sa số các kiểu xe xếp thành một vòng rộng vây quanh khoảng trống được dành làm vũ đài cho cuộc hội thi rô-đê-ô. Dân đánh xe vừa tháo ngựa vừa vặc nhau ỏm tỏi để dành chỗ tốt, trong khi đó đám đông sặc sỡ đủ màu tìm chỗ ngồi dọc theo dãy hàng rào bao quanh đấu trường.
Các chủ trại và các vị đại diện chính quyền địa phương được dành riêng những chỗ ngồi trên một khán đài bằng gỗ. Ông Alan cũng thuộc về số người may mắn đó, vì vậy, cùng với những vị khách của mình, ông đã tìm được chỗ ngồi trên khán đài. Từ đây có thể nhìn thấy rõ toàn bộ đấu trường.
Tômếch ngồi xuống chiếc ghế dài bên cạnh Xanli. Cô gái nhỏ người Ôxtralia mặc một chiếc váy đăng ten dài màu trắng, nom xinh xắn đến nỗi khó ai rời mắt nổi. Các vị chủ trại ngồi trong các lô lân cận cúi mình chào ông Alan, vị sê-ríp được mọi người kính trọng, song trước hết họ mỉm cười thân ái với cô bé bạo dạn đang thích thú đưa mắt ngắm nhìn mọi thứ xung quanh.
Điều đó không lọt khỏi sự chú ý của thủy thủ trưởng Nôvixki. Anh quay sang phía Tômếch thì thầm.
– Này, người anh em có để ý thấy mọi người đang liếc nhìn con chim nhỏ của chúng ta hay không? Phải thừa nhận rằng cô nhóc nom bảnh như thủy thủ đoàn của tàu đang lên khung đúng điệu nhất ấy nhỉ!
– Có gì là lạ, nó chải chuốt suốt từ sáng còn gì, – Tômếch làu bày. – Tốt hơn chú hãy nhìn đấu trường kìa, hội thi rô-đê-ô đã bắt đầu rồi đấy…
Điều lưu ý của Tômếch quả là thừa, vì chính vào lúc ấy, cả quảng trường vang dậy tiếng hô reo chào đón những đấu thủ đầu tiên. Mấy cao bồi dắt một con ngựa hoang đang lồng lộn tiến ra đấu trường. Việc lắp yên cương và dây thắng ngựa chỉ kéo dài một phút và sau đó một tay cao bồi người cao kều, có cặp chân vòng kiềng, nhảy phắt lên lưng ngựa. Khi những người khác vừa bỏ dây buộc ra, con ngựa liền bắt đầu tìm mọi cách hất người cưỡi xuống đất. Khi thì nó đứng dựng ngược trên hai chân sau, lúc lại chồm trên hai chân trước, lúc thì vật mình xuống đất để người cưỡi phải nhảy khỏi yên, nhưng khi nó vừa bật dậy thì người cưỡi đã lại ngồi vững vàng trên yên và hét lên những tiếng kêu khích lệ nó hãy giở tiếp các trò ma mãnh mới. Tức tối vì không hất được người cưỡi xuống đất, con ngựa chạy đến sát hàng rào bao quanh đấu trường, cọ xát hai bên sườn vào hàng rào, nhưng tay cao bồi rất nhanh nhẹn đã tuột người sang bên hông này hay bên hông kia tránh cho chân khỏi bị dập nát. Sau mấy phút, con ngựa hoang mình phủ đầy bọt hầu như đã bị thuần phục, nhưng khi chàng cao bồi vừa mới vung chiếc mũ rộng vành lên ra dấu chiến thắng, thì bất thần cong ngựa nhảy bật cả bốn vó lên khỏi mặt đất khiến chàng ta bị bắn vọt lên không, vạch thành một vòng cung dài.
Khán đài điên lên vì sung sướng, tiếng huýt sáo, tiếng hoan hô và tiếng hò hét kích động các đấu thủ mời tiến vào đấu trường. Họ biểu diễn tài nhanh nhẹn khéo léo, người này tiếp sau người khác, không hề gián đoạn. Dĩ nhiên, việc cưỡi những con ngựa hoang không phải là trò chơi không nguy hiểm. Một vài con ngựa không chỉ đứng lại ở chỗ ném người cưỡi ngựa xuống đất, một số cao bồi bị thương, hai hay ba người bị khiêng ra khỏi đấu trường. Trò ném thòng lọng bắt ngựa ít nguy hiểm hơn, song cũng khiến người xem nhiều phen hồi hộp. Ngay hôm đó, “ông hoàng” của những người thi cưỡi ngựa và quán quân của môn ném thòng lọng là một chàng cao bồi ở bang A-ri-dô-na, cao và gầy như cây sậy, tóc hung đỏ.
Ngày hôm sau mở đầu bằng những cuộc thi bắn súng ngắn. Mặc dù thủy thủ trưởng và Tômếch cũng là những tay tài nghệ trong lĩnh vực này, song họ vẫn nhiệt liệt vỗ tay thán phục các xạ thủ của Miền Viễn Tây Hoang Dã. Nơi đây, việc bắn một phát trúng đồng xu bằng bạc nhỏ xíu tung lên trời không được coi là chuyện gì đáng chú ý. Đã nhiều lần Tômếch thành công trong nghệ thuật ấy, cậu biết rõ nguyên tắc cơ bản phải tuân theo để bắn trúng mục tiêu. Vào một thời điểm nào đó, đồng tiền ném lên trời sẽ đạt tới điểm cao nhất, nó gần như đứng im một chỗ trong không khí, chính khi ấy cần phải bóp cò súng. Nghệ thuật bắn như thế là chuyện quá dễ đối với những tay thiện xạ tham gia thi đấu ở rô-đê-ô, họ thi nhau bắn trúng đồng tiền tung lên trời những hai ba lần, mỗi lần bị bắn trúng, đồng tiền lại nhảy vọt một cái trong không khí. Giải nhất về tay một người ở bang Tếch-dớt, anh ta đã bắn trúng một đồng tiền tung lên trời những bốn lần. Những xạ thủ bắn trúng các mục tiêu nằm đằng sau lưng (họ ngắm qua gương phản chiếu) được hoan hô nhiệt liệt. Sau đó, người ta biểu diễn tài bắn từ trên lưng ngựa đang phi nước đại.
Người In-đi-an vốn là những người lành nghề trong thuật phi ngựa như vũ bão, mặc dù cũng có những cao bồi sánh tài với họ, biết cách đeo mình dưới bụng ngựa đang phi như bay. Thực ra, người da đỏ – những người mới được làm quen với ngựa sau khi người da trắng đến lục địa này – đã vượt xa người da trắng trong nghệ thuật cưỡi ngựa. Những con người không hề biết sợ hãi của thảo nguyên, bằng sự kiên nhẫn và dịu dàng của mình, đã đi sâu vào bản tính của từng con ngựa, luyện chúng thành những người bạn không thể tách rời của họ trong những cuộc săn bắn và trong chiến trận.
Cuối ngày thứ hai là những cuộc thi sức mạnh. Những cuộc thi này diễn ra theo cách thức khá độc đáo. Người ta thả vào đấu trường một con bò mộng, một cao bồi phi ngựa theo sau. Nhiệm vụ của người này là đuổi kịp con bò, tóm lấy sừng bò, bẻ quặt cổ nó, bắt nó phải ngã lăn ra đất.
Trong số các đấu thủ tham gia cuộc thi này chỉ có hai người vượt qua được mọi thử thách. Bây giờ họ còn phải đấu với nhau trận quyết định. Người ta thả một con bò mộng khổng lồ vào đấu trường. Nó cúi đầu lao thục mạng vào khoảng trống. Dáng vững chải của con bò đứng dang rộng chân, với cái u to tướng, làm bật lên những tiếng xuýt xoa thán phục và sợ hãi. Con bò mộng đứng sừng sững ngay chính giữa đấu trường. Nó giương cặp mắt đỏ ngầu nhìn đám người đang chen chúc nhau sau vòng rào. Hai chân trước của nó đập mạnh vào mặt đất làm tung lên những đám bụi mù.
Các đấu thủ nhìn con vật khổng lồ với vẻ ngần ngại. Cả hai đấu thủ đều là người của bang Niu Mê-hi-cô, nên trông thấy con bò mộng to lớn đến dị thường, họ thoáng nghĩ là những người dân bang A-ri-dô-na cố tình chơi xỏ họ. Phải chăng, bằng cách này, người ta muốn tước đi khả năng chiến thắng của cả hai đấu thủ? Họ bàn bạc với nhau một hồi, trong khi người xem xét bắt đầu biểu lộ sự không hài lòng. Những tiếng kêu la chỉ trích, những giọng nói khiêu khích và những tiếng huýt sáo vang lên, khiến con bò mộng hăng máu chạy vòng quanh đấu trường.
Bị những lời khích bác và tiếng kêu chế giễu tác động, cả hai cao bồi đều muốn thử sức. Một trong hai người rút trong túi ra một đồng tiền. Người xem hiểu ngay: họ muốn rút thăm xem ai sẽ phải đấu trước. Chàng cao bồi tung đồng tiền lên không, tóm lấy nó và úp chặt bàn tay kia vào. Y thở phào nhẹ nhõm, số phận muốn đối thủ của y phải đấu trước.
Kẻ không may mắn bị số phận lựa chọn từ từ cởi chiếc áo chẽn bằng da, dây lưng đeo súng lục, và chiếc áo chẽn bằng da, dây lưng đeo súng lục, và chiếc mũ rộng vành. Sau đó, y tiến đến bên con ngựa, kiểm tra lại dây thắng đai và yên cương, rồi nhẹ nhàng nhảy lên mình ngựa. Khán đài rền lên tiếng kêu la ồn ào vui sướng. Người ta mở hé cổng cho kỵ sĩ tiến vào đấu trường.
Con bò mộng đang đứng chính giữa đấu trường điên tiết đập bốn móng chân vào đất. Vừa nhìn thấy người kỵ sĩ, nó liền cúi gằm cái đầu có cặp sừng cong vút to tướng, duỗi dài đuôi như một sợi dây và lao thẳng vào anh ta.
Quả tình, chàng cao bồi không mấy thích thú cái trận đấu này, song y không hề mất bình tĩnh trước con vật đang sôi máu. Có thể thấy ngay cả kị sĩ lẫn con ngựa đều đã quen với những trận đấu kiểu này. Bị đinh thúc ngựa thúc nhẹ vào sườn, con ngựa nhảy ra chắn ngang đường con bò mộng, nhưng khi bò vừa lao tới, nó lanh lẹ ngoặt sang một phía, để con bò lao sượt qua. Khi bò vừa sượt qua, người kị sĩ liền quay ngoắt ngựa lại đuổi theo ngay.
Người xem sướng đến cuồng lên khi nhìn thấy những động tác khéo léo của chàng cao bồi. Tình thế trên đấu trường biến đổi trong từng chớp mắt. Khi con bò mộng đuổi theo chàng kị sĩ, khi thì anh ta thúc ngựa đuổi theo sát con bò đang bị mất phương hướng, mỗi lúc một tiến gần sát bên sườn nó. Mọi người đều hiểu được mục đích của cuộc săn đuổi hình như vô nghĩa này. Người cao bồi muốn làm cho con bò thấm mệt trước khi nhảy từ mình ngựa sang lưng nó để sau đó nắm sừng nó vật ngã ra đất.
Sau vài chục lần húc không kết quả, con bò mộng đã chạy chậm lại. Bây giờ, kị sĩ mới phi ngựa theo một vòng rộng quanh đấu trường, dọc theo sát hàng rào. Không rõ vì mệt mỏi hay bị mất phương hướng, con bò thôi không tấn công nữa. Nó chạy những bước nặng nề, liếc cặp mắt đỏ những vằn máu nhìn người kị sĩ đang chờn vờn mỗi lúc một bạo hơn. Thỉnh thoảng, nó quay ngoắt đôi sừng cong, định xọc thủng bụng con ngựa, nhưng ngựa đã nhanh nhẹn nhảy tránh để rồi quay trở lại.
Hàng trăm người xem nín thở theo dõi chàng cao bồi, kẻ rõ ràng đã chuẩn bị sẵn sàng để chuyển sang hiệp cuối cùng quyết định trận đấu.
– Chú ý! Chú ý này! Bây giờ anh ta sẽ tóm lấy sừng bò! Nhìn kìa, anh ta đã cúi nghiêng người, – sê-ríp Alan kêu lên. – Anh ta trị được con bò mộng khổng lồ này cho mà xem! Tôi xin đánh cuộc rằng chàng trai dũng cảm này quyết định sẽ kết thúc cuộc đấu ngay trước khán đài bằng sự khéo léo và sức mạnh của mình để khiến cho A-ri-dô-na phải hổ thẹn cho xem!
Nóng người lên vì cuộc săn đuổi, đến gần khán đài đấu thủ càng ép mình vào cổ ngựa. Khi cả đấu thủ lẫn con bò mộng chạy đến trước khán đài chính, tất cả người xem đều đứng bật dậy trong một sự im lặng đầy căng thẳng.
Chàng cao bồi không phụ lòng mong đợi của công chúng. Bị thúc mạnh, con ngựa nhảy vọt lên tiến sát đến bên sườn con bò tót, đúng lúc đó, người kị sĩ rút chân ra khỏi bàn đạp, ngả sang phía con bò và dùng hai tay tóm chặt lấy cặp sừng của nó. Rồi lập tức, anh nhảy ngay sang lưng con bò, hai chân như hai gọng kìm kẹp chặt lấy bụng nó. Con bò tót lồng lên như hóa dại. Con ngựa thì nhảy tạt sang một bên để tránh khỏi những cái móng sắc của bò. Chàng cao bồi giật mạnh sừng bò và đã hơi vặn được cái cổ đồ sộ của nó đi một ít. Tiếng xôn xao thán phục lan khắp khán đài.
Bỗng một chuyện bất ngờ xảy ra. Dường như để giễu cợt con người đang vặn cổ nó, con bò quay ngoắt lại phía con ngựa đang chạy từ từ về phía sau, xóc đôi sừng vào bụng ngựa, quật con ngựa ngã xuống đất rồi giẫm đạp lên, sau đó, nó bất ngờ thụp hai chân trước xuống quẳng người cưỡi ngã sóng soài trên mặt đất. Một cú húc tiếp theo khiến chàng cao bồi bất tỉnh nhân sự.
Tiếng xôn xao thán phục chợt biến thành tiếng kêu thét khiếp đảm. Con vật hăng máu đã lấy lại sức. Hai cái sừng cong vút xóc vào người chàng cao bồi tung lên không. Đấu thủ đang bất tỉnh nhân sự nặng nề đập người xuống đất. Một lần nữa, con bò mộng lại lao về phía anh… Khán đài chìm trong một sự im lặng kinh hãi.
Đúng lúc đó, một người đàn ông tóc sáng nhảy qua hàng rào khán đài chính. Anh thoăn thoắt chạy chắn đường con bò mộng, và trước khi con vật điên cuồn kịp thọc cặp sừng chết người của nó vào thân thể chàng cao bồi đang bất tỉnh, thì một quả đấm khổng lồ gân guốc đã nện thẳng vào trán nó, đúng giữa hai mắt đang đỏ ngầu máu. Đang đà chạy, con bò sững người lại, khuỵu hai chân trước, lăn ra đất rồi lại đứng dậy, song cùng lúc đó người thủy thủ trưởng khổng lồ đã nện tiếp cho nó quả đấm thứ hai, cùng đúng vào giữa hai mắt. Con bò rống lên một tiếng khủng khiếp, quỵ chân xuống, và khi ấy chàng thủy thủ tóm lấy cặp sừng của nó giật mạnh một cái, bẻ quặt đầu, vật nó ngã lăn ra đất.
Vài người cao bồi và In-đi-an cầm thòng lọng vội chạy tới, trói chân con bò lại. Đến lúc đó, thủy thủ trưởng mới thả cặp sừng của con vật ra. Anh nặng nhọc tì khuỷu tay vào mình con vật, đứng dậy và từ từ vươn thẳng lưng.
Sửng sốt và đầy thán phục trước một sức mạnh gần như vượt quá khả năng con người, những người xem đứng lặng đi, trong khi đó chàng thủy thủ đã vượt qua cơn mệt mỏi, bình thản như không có chuyện gì xảy ra, đứng phủi bụi ở quần.
Chính cái động tác giản dị dân dã ấy khiến người xem quay về với thực tại. Tiếng hò reo váng tay vang lên. Trước sự xô đẩy của đám đông, hàng rào chắn đấu trường bị gãy, mọi người vừa kêu gào vừa nồng nhiệt lao tới ôm chầm lấy chàng thủy thủ trưởng. Người thì túm chặt đôi bàn tay đồ sộ của anh mà hôn, người thì lại muốn sờ vào người chàng lực sĩ. Chàng thủy thủ trưởng không biết mình được đưa trở lại khán đài cạnh những người bạn của mình bằng cách nào nữa. Các ông chủ trại giàu có cùng các bà các cô mắt long lanh, quên hẳn vẻ bề thế, trịnh trọng của mình. Mọi người đều muốn được tận mắt ngắm nhìn chàng lực sĩ sức vóc phi thường nọ, muốn tặng anh ta một món quà nho nhỏ để kỷ niệm hành động anh hùng. Ban đầu chàng thanh niên giàu tự trọng người Vac-xa-va hơi cáu vì bị người ta cứ ấn vào tay anh trăm thứ đồ đủ loại, nhưng ông Alan kịp thì thầm vào tai anh rằng dân Mỹ vốn có phong tục tặng quà cho những vị anh hùng của họ. Vì vậy, chàng trai có thân hình lực lưỡng sinh ra bên dòng sông Vi-xoa của chúng ta đành ngồi yên, ngượng nghịu chìa má cho các tiểu thư đặt những chiếc hôn thắm thiết.
Hôm đó là hôm trước ngày tổ chức các cuộc đua ngựa, song chàng thủy thủ trưởng và những bạn bè của anh không thể quay về trại được sớm. Họ được sê-ríp Alan và mấy người chủ trại ở bang Niu Mê-hi-cô mời đi dự một bữa tiệc mừng thủy thủ trưởng mãi đến tận khuya, chỉ có bà Alan và Xanli trở về nhà sớm hơn một chút.
Thủy thủ trưởng là người anh hùng của ngày hôm đó. Các chủ trại ở vùng biên giới không yên tĩnh này say sưa lắng nghe chuyện kể về những việc phi thường. Chàng thủy thủ trưởng vui lòng thuật lại cho họ nghe những chuyện thú vị mà anh đã trải qua, còn Tômếch cũng lắng tai để không bỏ sót một chuyện phiêu lưu nào của những người bạn lớn tuổi mà có thể từ trước đến nay cậu chưa được biết.
Cả nhóm người vẫn chưa thể quên những ấn tượng vừa trải qua trong ngày hôm ấy. Một lần nữa người ta lại ca ngợi lòng dũng cảm và sức khỏe phi thường của chàng thủy thủ, người đã cứu anh cao bồi xấu số khỏi cái chết mười mươi – chàng cao bồi này này từng được xem là người đàn ông khỏe nhất bang Niu Mê-hi-cô. Trong cuộc trò chuyện, một bà chợt hỏi thủy thủ trưởng trong đời anh đã từng gặp gỡ đối thủ nào có thể được xem là ngang sức hay chưa.
Thủy thủ trưởng suy nghĩ một lát rồi đáp:
– Nói cho đúng ra, thưa bà, thì chưa ai địch nổi tôi khi đấu tay đôi. Bạn bè tôi trong đám lính thủy cứ phải vài người xúm lại mới quật đổ được tôi. Cũng vì thế mà họ thường đem tôi ra đánh cuộc với người ngoài để được cuộc một vài chai rượu rum. Chỉ có một lần xuýt nữa thì họ thua cuộc.
– Xin ông hãy kể chuyện ấy đi!
– Iiiii… cũng chẳng có chuyện gì đáng kể, thưa bà! Thậm chí không đáng nhắc lại nữa kia, – thủy thủ trưởng tránh né.
Song mọi người chung quanh đều nài nỉ, vì vậy chàng thủy thủ trưởng đành hắng giọng rồi bắt đầu kể.
“Chuyện đó xảy ra tại một quán rượu ở thành phố Bu-ê-nôt Ai-ret ở Ác-hen-ti-na. Chúng tôi uống rượu với anh em bạn và nhẵn túi, không còn gì để làm thêm một chầu trước khi rời bến nữa. Thế là theo cách cũ, chúng bạn bắt đầu hết lời ca ngợi sức khỏe của tôi. Nghe thấy thế, những người Ác-hen-ti-na ngắm tôi rất kĩ lưỡng, rồi nói rằng quả tình nom tôi cũng đô đấy, song không thể địch nổi một tay mu-lát[1], một người quen của họ. Theo họ nói, tay mu-lát này có thể bóp tay của người ta – bất kì ai – mạnh đến nỗi những ngón tay vỡ toác ra, bật máu. Bạn bè của tôi bèn phá ra cười, bởi vì quả tình từ trước tới nay, tôi đã dồn khá nhiều bậc lực sĩ vào ngõ cụt. Đám dân Ác-hen-ti-na nổi cáu bèn đánh cuộc với chúng tôi, và lập tức vài người trong bọn đi ra phố tìm tay mu-lát nọ. Chừng một giờ sau, họ dẫn y đến, và khi ấy quả tình chúng tôi cũng xám mặt hết loạt. Thằng cha cao hơn tôi đến nửa cái đầu. Khi bước vào quán, y phải đi nghiêng người mới lọt qua cái cửa ra vào khá hẹp. Lúc đầu, tôi suýt bật cười, vì đám bạn bè đánh cuộc mà chẳng có lấy một xu nào trong túi, song chỉ một lúc sau tôi lại thấy thương, dù sao thì chúng tôi cũng làm việc trên cùng một chiếc tàu.
Trong khi đó, gã mu-lát liếc nhìn tôi qua vai, mỉm cười khinh bỉ và hỏi: “Mày vẫn dám đánh cuộc chứ, hả?” Tôi gãi gãi đầu, vì trong túi tôi chỉ còn độc có vải lót túi. Bọn người Ác-hen-ti-na bèn phá lên cười.
Thủy thủ trưởng im lặng. Ông Alan nhanh nhẹn rót đầy rượu vào cái cốc trước mặt anh. Thủy thủ trưởng nhấp giọng rồi kể tiếp:
“Tôi xấu hổ quả, vì tôi là người Ba Lan duy nhất trong cả đám. Đám bạn tôi cũng tức khí. Bọn người Ác-hen-ti-na biết chúng tôi chờn liền thêm can đảm, chúng gào tướng lên: “Chúng tao đánh cuộc một trăm lấy muwofi cho anh bạn mu-lát của chúng tao đấy!” Không muốn làm đám bạn bè cũng như dân tộc mình phải xấu hổ, tôi bèn nhận lời. Tôi chỉ cạn thêm một cốc rượu Gia-mai-ca chính hiệu để lấy thêm sức rồi bắt đầu bóp chặt bàn tay da nâu của gã mu-lát.
Hóa ra xương thằng cha mu-lát khá mềm. Chỉ chừng hai phút sau hắn đã phải quỳ mọp xuống trước mặt tôi, còn máu thì trào ra từ các ngón tay của hắn. Bằng bàn tay còn nóng hổi ấy hắn phải xì ra cả trăm. Đám bạn tôi thì ních chặt tiền vào túi và chúng tôi chè chén mãi cho đến khi tàu nhổ neo mới thôi.”
Cuộc trò chuyện sẽ còn kéo dài đến khuya, nếu như ông Alan không nhắc mọi người nhớ đến cuộc đua ngựa sáng hôm sau.
Mọi người bắt đầu tản về nôi ở, hai người bạn của chúng ta cùng với sê-ríp Alan quay về trại ở ngoại thành nghỉ ngơi.
[1] Chỉ người lai giữa người da trắng và người da đen