Hai tuần đã trôi qua kể từ sau hội rô-đê-ô. Được thủ lĩnh Mắt Dài mời, Tô-mếch và thủy thủ trưởng đến thăm trại định cư Mê-xca-le-rô của người A-pa-sơ trong vài ngày. Cả hai đều hy vọng rằng đây là cơ hội để có thể bàn bạc việc thực hiện nhiệm vụ mà ông Ha-gen-béc giao phó. Đợt nghỉ ngơi ở Niu Mê-hi-cô đã gần kết thúc. Họ định ba hay bốn tuần nữa sẽ cùng với bà Alan và Xan-li lên đường quay trở lại châu Âu. Vì đã hết kỳ nghỉ hè, Tô-mếch định sẽ bàn với những người In-di-an để tổ chức nhóm người tham gia đoàn xiếc.
Trong những ngày Tô-mếch đi vắng, hàng ngày Xan-li đều lên quả đồi gần nhà vài lần để ngóng xem hai người bạn đã về chưa.
Buổi sáng hôm ấy nóng và nắng. Bà Alan cùng Xan-li hái quả cây ở một góc vườn xa. Ngày hôm ấy, đã hai lần Xan-li chạy lên gò ngóng thử, vì em đoán Tô-mếch và thủy thủ trưởng có thể sắp về, và cũng vì thế nên chẳng mấy chốc em không thích thú gì với việc hái quả nữa.
– Mẹ ơi, con chạy ra đường một tí nhé, – cô bé gọi to. – Có thể họ đã về tới nơi rồi cũng nên.
– Được rồi, được rồi, hỡi linh hồn không yên của mẹ, nhưng con chớ ngồi lại ngoài ấy lâu quá và nhớ đưa Đingô theo nhé, – bà mẹ mỉm cười đáp lại.
Bà Alan quay lại với công việc vừa gián đoạn trong giây lát, và nghĩ miên man về gia đình hiện đang ở Ôxtralia xa xôi. Đây là lần đầu tiên bà xa chồng lâu đến thế. Bà nghĩ khi vắng bà không hiểu ông sẽ xoay xở ra sao. Bà cũng lo không biết nắng có làm cháy đồng cỏ hay không, điều này thường xảy ra ở Ôxtralia, bà tính xem bao nhiêu việc đang đợi bà khi trở về. Bà hài lòng nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ lên đường đi Anh. Chỉ cần thu xếp cho Xan-li ở với người bà con xong là bà có thể quay trở về nhà ngay.
Trong khi đó Xan-li kéo tai con Đingô vô tư chạy thẳng lên gò. Em đứng một lúc lâu, lấy tay che mắt nhìn ra con đường, song chẳng mấy chốc em chợt để ý tới một con vật rất hay, có thân hình trông tựa con nhái.
Đó là một con cóc sừng châu Mỹ, theo như Tô-mếch đã khẳng định, đó là một trong những loài đặc biệt trong số các động vật của Bắc Mỹ.
Tô-mếch cũng đã nhiều lần chỉ cho cô bé thấy loài sinh vật đó và nói rằng loài này tương tự như loài nhông gai Ôxtralia.
Con vật, thuộc họ kỳ đà, có thân hình dẹt như một chiếc đĩa, dài chừng mười lăm cen-ti-mét, mình phủ đầy vảy gai, trên đầu vảy to hơn, còn trên cái đuôi ngắn ngủn vảy nhỏ hơn. Nó di chuyển rất vụng về, ngược hẳn với tính nhanh nhẹn nổi tiếng của những con vật trong họ thuộc bộ thằn lằn. Chắc hẳn cái thân mình đã cản trở nó trong việc săn đuổi mồi hay chộp những con ruồi đang bay trong không khí, vì vậy loài cóc này chỉ sinh sống bằng những loài côn trùng chậm chạp và vụng về tự dẫn xác đến trước mồm nó. Chính sự khảnh ăn này – hậu quả của việc nó quá lề mề trong khi di chuyển – lại là nguyên nhân khiến những thổ dân trong vùng cho rằng loài cóc sừng này chỉ sống bằng không khí mà thôi.
Xanli chăm chú quan sát con vật, vì thực ra cũng rất ít khi nhìn ra được nó, bởi nó có da màu cát xám với những đốm nâu sẫm có tác dụng tự bảo vệ. Trước đây, cô bé đã quyết định sẽ bắt một con cóc sừng như thế tặng cho người bác hiện đang sinh sống ở Anh. Nhiều người đi tha phương sinh cơ lập nghiệp gửi cho những người thân ở châu Âu những con cóc sừng đã được thuần hoá, bỏ trong hộp giữa hai lớp bông dày, khiến các vị thị dân nhát gan phải hoảng hồn khi nhìn thấy chúng. Xanli nghĩ xem có nên bắt con cóc ngay bây giờ hay không, song em cũng chưa biết sẽ bắt thế nào, bởi trong trường hợp nguy hiểm, con vật vốn không có gì để tự vệ này có thể xịt mấy giọt máu từ mắt và mũi bắn xa mấy cen-ti-mét ra chung quanh. Mặc dù Tô-mếch đã cam đoan rằng chất đó chẳng có ảnh hưởng độc hại gì đối với con người, song Xanli vẫn sợ, không chắc “chất độc” ấy có thực là không nguy hiểm hay không. Em thường nghe chú Alan nói rằng các loài cóc và kỳ nhông thường có tuyến nọc độc nằm ngay sau gáy.
Con chó Đingô cũng rất chăm chú quan sát con vật kỳ lạ, song Xanli giữ chặt cồ dề của nó.
Bỗng Đingô ngẩng đầu, dỏng hai tai, sau đó đứng yên chăm chú lắng nghe. Cử chỉ của con chó khiến Xanli chú ý, song mãi một lúc sau em mới nghe thấy tiếng vó ngựa xa xa.
Không một phút chần chừ, Xanli chạy ngay lên đỉnh gò, con chó cũng sải những bước dài chạy theo. Lên đến đỉnh, Xanli nhìn thấy ngay một đám bụi đang bốc lên mù mịt dọc theo con đường trên thảo nguyên phía bắc.
– Chắc anh Tômmy và thú thủy thủ trưởng trở về rồi! – cô bé kêu to.
Đám bụi càng tiến lại gần, Xanli càng chạy chậm dần lại. Tại sao họ lại trở về đông thế nhỉ? Trong đám bụi mù mỗi lúc một nhìn rõ nhiều đầu ngựa và những khuôn mặt đen sẫm của các kỵ sĩ.
Xanli biết rằng Tômếch muốn đưa một nhóm người In-đi-an cùng đi về châu Âu. Cô bé thầm nghĩ chắc Tômếch đã kết thúc thắng lợi việc thương lượng và đưa những người da đỏ cùng về.
Cô bé dừng lại bên đường.
Nhìn thấy cô gái bé đứng một mình, những kỵ sĩ ghìm ngựa lại. Lát sau đã có một nhóm người In-đi-an vây quanh cô bé. Xanli nhìn họ ngạc nhiên. Đến bây giờ em mới thấy là mình đã lầm. Trong đoàn người ngựa đó không có Tômếch lẫn thủy thủ trưởng, hơn nữa nom bề ngoài những người In-đi-an kỳ lạ này cũng không giống dân In-đi-an sống trong trại định cư gần đó. Nước da của những người đàn ông gày guộc này không phải màu đồng mà lại là màu nâu xám. Chỉ riêng có mái tóc cứng như dây thép, đen ánh lên, gần như ngả sang sắc xanh, những khuôn mặt vuông chữ điền và những cặp mắt nhỏ tí là giống những người In-đi-an Hoa Kỳ mà thôi. Trang phục họ cũng khác. Họ mặc áo sơ-mi và những cái quần rộng thùng thình bằng vải bông mỏng, một số người còn khoác thêm những tấm da-ra-pa sặc sỡ, đó là những tấm choàng dệt bằng tay, có lỗ chui đầu, với những hình vẽ trang trí đối xứng nhau, theo mẫu của những tấm chăn Na-vai. Trên đầu họ mang những chiếc mũ rơm lớn. Tất cả bọn họ đều có vũ khí, tay họ cầm súng khai hậu cũ kỹ hoặc súng trường kiểu mới, chỉ một ít người mang dây lưng có bao súng lục. Tất cả đều có dao dài và dây thòng lọng la-xô.
Những người In-đi-an kỳ dị nói với Xanli bằng một thứ tiếng mà em không hiểu. Cô bé im lặng.
Bỗng từ phía trại chợt vang lên những tiếng súng và những tiếng hò la vang động. Bấy giờ Xanli mới hoảng thật sự. Chuyện gì xảy ra thế này? Nghe tiếng súng, những người cưỡi ngựa vây quanh em liền thét lên những tiếng khủng khiếp. Một tên trong bọn ngồi trên ngựa cúi mình xuống phía cô bé, và bằng một động tác nhanh nhẹn xốc cô lên. Đingô lập tức lao vào hắn, song những tên khác đã dùng roi quật tới tấp vào con chó. Bị đánh tối tăm mặt mũi, con vật vẫn dùng móng vuốt cổ cào cấu người và ngựa, song sự chống trả trung thành ấy không mấy hiệu quả. Chỉ một lúc sau, bị một báng súng trường nện mạnh vào đầu, Đingô trung thành ngã vật ra đất.
Hoảng sợ và phẫn nộ đến cực độ, Xanli cào cấu tên In-đi-an đang ôm giữ em. Nhìn thấy thế, một tên khác liền trút tấm choàng ra, quàng lên đầu cô bé đang cào cấu. Bị quấn chặt vào tấm chăn hôi hám, Xanli không thể kêu cứu được nữa. Hai cánh tay rắn chắc và gân guốc giữ chặt em trên mình ngựa. Toán kỵ sĩ bắt đầu phi nước đại. Chắc chúng phải phi ngựa qua sát trại, vì những tiếng súng nổ nghe rất gần. Xanli tưởng rằng sê-ríp Alan sẽ cứu em thoát ngay, song đó chỉ là một hy vọng hão huyền. Tiếng súng đã im hẳn. Bọn người In-đi-an mang cô bé đi về một nơi xa lạ. Chỉ còn nghe thấy tiếng roi vút, tiếng những con ngựa đang phóng nhanh kêu rừ rừ và hí lên thảm thiết.
Xanli không biết cuộc phi ngựa điên cuồng đó kéo dài bao lâu. Cái chăn bịt kín tiếng kêu và tiếng khóc của em, bó chặt cả đôi tay. Mãi sau, gần như ngạt thở, em lặng hẳn, không còn nhận biết những gì đang xảy ra nữa.
Xanli tỉnh dậy. Em rùng mình cảm thấy trong miệng một chất lỏng gì đó rất kinh khủng, bốc mùi trứng ung.
Em nhấc đầu lên, kinh tởm khạc nhổ thứ chất lỏng đang đốt cháy trong miệng ra ngoài.
Bây giờ em mới nhận thấy là mình không còn ở trên lưng ngựa nữa, mà đang nằm trên một tấm choàng rải trên mặt đất dưới bóng cây. Vài bóng người đang cúi xuống phía em, một bóng đen đang đổ cái chất lỏng nóng bỏng, hôi thối từ bị đông vào miệng em.
Xanli quay ngoắt đầu sang một bên.
– Cho tôi ít nước, – em thì thào.
Những bóng đen ấy nói gì đó với nhau, rồi có ai đó mang lại cho em một cốc nước, Xanli thèm thuồng nốc cạn.
“Thế là cái ngày khủng khiếp này đã trôi qua rồi. Bây giờ đã là đêm”, – em thầm nghĩ.
Trên bầu trời màu ngọc bích sao sáng dày đặc. Họ đang ở trong một cái thung lũng nào đó. Những bụi xương rồng khổng lồ nơi đây, trong bóng đêm chợt trở thành những hình thù đáng sợ. Ở bên cạnh, nghe thoáng như có tiếng một dòng suối đang róc rách.
Những người In-đi-an bây giờ đã trò chuyện với nhau thoải mái hơn. Khuôn mặt của chúng không còn cái vẻ độc ác đến cùng cực nữa. Xanli ngồi nhỏm dậy, bọn chúng bèn đưa thức ăn cho em.
– Xê-nho-ri-ta, to-rơ-li-ta! – một người In-đi-an cất tiếng mời và đặt trước mặt Xanli một miếng bánh cùng một rẻo thịt khô.
Hắn ra hiệu cho cô bé ăn, song Xanli không hiểu có nên nhận thức ăn từ tay kẻ thù hay không. Bây giờ thì em không còn nghi ngờ gì nữa: một bọn người In-đi-an Mê-hi-cô đã bắt cóc em, đồng thời đã tấn công trại của chú Alan. Đó là bọn người Mê-hi-cô, bởi nét mặt, trang phục cũng như tiếng nói của bọn chúng đều khác hẳn người In-đi-an Bắc Mỹ. Trong mấy tuần sống ở vùng biên giới này, Xanli đã kịp học mấy tiếng Tây Ban Nha, em biết rằng những người Mê-hi-cô chủ yếu nói bằng tiếng Tây Ban Nha.
Những cô bé khác cùng tuổi Xanli chắc phải ngất xỉu khi hiểu ra điều ấy. Nhưng cần nhớ rằng cô bé người Ôxtralia này là con gái của một người đi khai phá, được nuôi dưỡng trong một miền đất hoang dại và khắc nghiệt. Ở quê hương, em đã từng trải qua không ít nguy hiểm, vì vậy giờ đây em biết tự kìm chế nỗi sợ hãi, biết suy nghĩ như một người từng quen với hiểm nguy.
Điều dằn vặt em nhiều nhất là không rõ tính mạng của mẹ và chú em giờ đây ra sao. Khi nổ ra trận tấn công, mẹ em đang ở một góc vườn xa và đang bận hái hoa quả. Bọn In-đi-an tràn qua trại giống như một cơn lốc tuyết. Xanli hy vọng rằng trước khi mẹ em kịp chạy về nhà, sau khi nghe thấy tiếng súng và tiếng kêu, thì mọi sự đã kết thúc. Chú Alan không bao giờ rời hai khẩu súng lục của chú, nhưng vốn là người giàu kinh nghiệm, chắc chú cũng không dại gì đương đầu với một toán cướp đông hơn hẳn. Vì vậy, hẳn là chú cũng tránh được tai nạn, vì bọn In-đi-an phải rời ngay trại khi gặp phải sức kháng cự mạnh. Nếu quả như thế thì chú Alan sẽ gọi Tômếch và thủy thủ trưởng về giúp sức để mở cuộc truy đuổi.
Nghĩ thế, như đã lấy lại tinh thần, em chỉ còn lo cho số phận con Đingô trung thành. Chính em đã nhìn thấy những tên Mê-hi-cô bất lương ném con chó bị đánh nhừ tử xuống đường.
Lúc ấy, một trong những tên bất lương kia đưa một miếng bánh gần như sát vào mũi em.
– Xê-nho-ri-ta, to-rơ-li-ta! – hắn chép chép miệng mời mọc.
Xanli nhìn hắn như vừa tỉnh giấc mơ. Gã In-đi-an nhăn bộ mặt vuông chữ điền thành một nụ cười để khuyến khích cô bé ăn.
To-rơ-ti-la bốc ra một mùi thơm dễ chịu. Xanli đói bụng lắm, thêm nữa em đi đến kết luận là muốn chờ đến khi được cứu thoát thì không thể từ chối thức ăn. Vì vậy, em cầm miếng bánh to-rơ-ti-la từ tay gã In-đi-an và cắn một miếng nhỏ. Hóa ra to-rơ-ti-la chỉ là thứ bánh ngô nướng trên than. Nó khá ngon khi Xanli phủi rơi lớp ớt đỏ cay xè mà người ta rắc lên trên. Cô bé ăn hết cái bánh rồi ăn tiếp rẻo thịt khô mỏng, thái dài dài.
Sau bữa ăn đạm bạc đó, em ngả lưng xuống tấm choàng để ngủ. Xương cốt em đau như dần, mắt em nhắm nghiền lại vì quá mệt. Trong giấc ngủ mơ màng không yên, em chợt choàng dậy bởi tiếng hú thê thảm của chó sói. Tiếng hú ấy nhắc Xanli nhớ đến Đingô, thế là em lại khóc thầm, vùi sâu mái đầu vào cái chăn dày.
Em vừa kịp thiu thiu ngủ thì có ai đó đập nhẹ vào vai. Em mở choàng mắt ra. Trên trời, sao vẫn đang sáng vằng vặc. Trong khi đó, bọn người Mê-hi-cô đã chuẩn bị sẵn sàng để tiếp tục lên đường. Một tên In-đi-an thấp bé lại đặt Xanli lên ngựa ngồi phía trước hắn, song lần này đã để cho cô bé được cử động tự do hơn. Đêm lành lạnh, Xanli quấn người trong tấm choàng dày thò đầu ra khỏi cái lỗ khoét ở giữa tấm.
Bọn người In-đi-an luôn thúc ngựa đi nhanh. Xanli hiểu rằng chúng muốn tránh thật xa trại để thoát khỏi cuộc truy đuổi. Mặc dù bị thúc, những con ngựa mệt mỏi do thiếu nghỉ ngơi vẫn chỉ chạy khá chậm.
Sao nhạt đi. Ngày hừng dậy từ trong bóng đêm. Sườn dốc của một hẻm núi dài ngoằn ngoèo bắt đầu hạ thấp dần xuống, và cuối cùng họ ra tới thảo nguyên thoáng đãng. Tận bây giờ, Xanli mới đếm được số lượng bọn cướp – chúng có hai mươi đứa. Ngày hôm trước, khi bọn chúng rời trại, Xanli nghe thấy rõ tiếng vút của roi mà bọn cao bồi thường dùng để lùa trâu bò hay ngựa, thế mà giờ đây em không thấy một con ngựa đi không nào cả. Em đang nghĩ lan man về việc khó hiểu đó, thì giọng nói của tên In-đi-an đi đầu chợt cắt đứt dòng suy nghĩ của em. Bọn cướp lập tức dừng ngựa lại. Chúng vươn cổ ngóng nhìn về phía bắc, vẻ lo lắng. Xanli khó khăn lắm mới kìm nổi một tiếng kêu sung sướng. Một đoàn người ngựa đông đúc đang băng chéo qua thảo nguyên, tiến đến gần. Vẻ phân vân trên nét mặt bọn In-đi-an cho thấy rằng đó có thể là đội săn đuổi đã kéo tới.
Tim Xanli đập dồn. Bọn In-đi-an rút súng ra, chuẩn bị sẵn sáng, nhưng không thể đọc nổi điều gì qua nét mặt bọn chúng.
“Ha, ha! Bây giờ thì chú Alan và anh Tômếch sẽ dồn bọn người còm nhom này vào sừng dê”. – Xanli háo hức nghĩ thầm.
Bỗng tên chỉ huy buông bàn tay dùng để che mắt cho khỏi bị chói mặt trời xuống, bình thản treo khẩu súng trường trở lại cọc yên và gọi to gì đó với đồng bọn. Chúng lại tiếp tục đi.
Suýt nữa Xanli oà lên khóc khi trông thấy đoàn người ngựa đến gần. Đó là những người In-đi-an Mê-hi-cô, chúng dắt theo những con ngựa hay nhất của chú Alan, được buộc bằng dây thòng lọng. Đi đầu là con Nil’chi tuyệt diệu. Xanli sợ hãi, cố tìm trong đám đông người In-đi-an xem có những người thân của em bị bắt làm tù binh hay không. May thay, toán mới đến này chỉ gồm toàn người da đỏ. Bây giờ hai toán gộp lại đã lên tới gần năm mươi người. Xanli dần dần đoán ra chiến thuật của bọn chúng. Thế có nghĩa là chúng tấn công trại đồng thời từ hai phía – phía bắc và phía nam. Xanli bị toán phía bắc kéo tới bắt. Trong khi toán phía nam cướp phá trại. Bằng cách này bọn Mê-hi-cô muốn đánh lừa những chủ trại chăn nuôi người Mỹ. Ai có thể nghi ngờ người Mê-hi-cô tấn công ăn cướp một khi dường như bọn chúng từ trong nội địa Hoa Kỳ kéo tới? Sau khi cướp phá, chúng cũng rút lui về phía Mê-hi-cô thành hai nhóm để gây khó khăn cho việc đuổi bắt. Xanli kết luận rằng suy nghĩ của em là đúng.
Trong khi đó, đoàn người ngựa đã đi đến vùng núi. Móng ngựa gõ những tiếng khô khốc trên nền đá. Suốt một thời gian dài bọn In-đi-an nhanh nhẹn luồn lách trong những hẻm núi và khe núi, song càng ngày càng rõ rằng chúng thôi không còn sợ bị đuổi kịp nữa: nền đá núi cản trở không cho những người đuổi theo lần ra dấu vết.
Khi trời đã tối mịt chúng mới dừng lại trong một khe núi âm u để trú đêm. Xanli nóng ruột không sao chợp mắt được. Liệu bạn bè cùng những người thân có tìm và giải thoát được cho em hay không? Ai có thể tìm nổi dấu vết trên nền đá núi cơ chứ?
Rất lâu trước khi trời sáng, bọn In-đi-an đã lại lên đường. Khoảng giữa trưa, chúng lại đi qua hết vùng núi. Thảo nguyên mênh mông có những cây xương rồng rải rác kéo dài về phía tây. Mấy tên In-đi-an tách khỏi bọn phóng ngựa về phía những làn khói đang hiện rõ ở chân trời. Xanli đoán rằng hẳn ở đó phải có một khu dân cư nào đó. Song tại sao bọn tách ra ấy lại dắt theo cả Nil’chi và năm con ngựa khác?
Bọn In-đi-an còn lại hạ trại chờ đợi. Chúng hút thuốc lá bằng những chiếc tẩu đất sét, và uống thứ rượu có mùi vị kinh tởm mà Xanli đã phải nếm trong lần dừng chân đầu tiên. Bọn chúng tranh thủ tận hưởng thời gian nghỉ ngơi. Riêng cô bé khó khăn lắm mới nuốt trôi được một mẩu to-rơ-ti-la, em nghĩ lan man về tình thế bi đát của mình. Bọn người In-đi-an hoàn toàn không e sợ điều gì, thậm chí chúng không thèm để ý đến cô bé nữa.
Vài giờ sau, nhóm In-đi-an tách ra đã quay trở lại sau chuyến đi có mục đích bí ẩn. Chúng dắt theo những con ngựa thồ nặng hàng, trong số đó không thấy có Nil’chi. Ngay lập tức, tất cả bọn In-đi-an quây quần lại bên lề đường. Sau một cuôc bàn bạc ngắn ngủi, chúng cuốn trại và tiếp tục đi về phía nam. Loài thực vật duy nhất ở đây là những cây xương rồng thiên hình vạn trạng, những cây thùa, những bụi ngưu bang và những cây giu-ki hình chiếc chổi. Trên đầu là lũ diều hâu bay lượn, thèm thuồng tìm mồi. Trong thế giới côn trùng của vùng đất đai cằn cỗi này, chiếm địa vị chủ yếu là các loại bọ ngựa. Chúng giống những cành cây khô một cách kỳ lạ. Ở đây cũng có rất nhiều châu chấu xanh, to tướng, cánh sặc sỡ, những con châu chấu voi kỳ lạ, đủ loại kiến và những loại bướm vàng to tướng.
Chính trên thảo nguyên khi cằn này, bọn người kia dừng lại nghỉ đêm. Xanli nhớ mẹ và những người thân đến cồn cào. Em khóc thầm cho đến khi dàn đồng ca của lũ côn trùng đưa em vào giấc ngủ.
Vài giờ trôi đi. Bỗng Xanli chợt tỉnh giấc. Em ngồi bật dậy. Những đống lửa đã gần tắt hẳn. Song bọn In-đi-an vẫn ngáy to tướng, không đếm xỉa gì đến cái lạnh của đêm. Xanli quấn tấm choàng rồi co mình lại định cố ngủ thêm. Gần đâu đây có tiếng ngựa kêu rừ rừ. Xanli bắt đầu suy nghĩ xem có nên lợi dụng những điều kiện thuận lợi này để đi trốn hay không, song em hiểu ngay rằng ý định ấy là không tưởng. Em trốn đi đâu được cơ chứ? Em không nắm được địa thế quanh vùng, mà trong lúc này không thể nhờ cậy vào sự giúp đỡ của ai cả. Nếu có trốn đi lúc này thì nhất định bọn In-đi-an cũng sẽ bắt em trở lại. Và khi đó chắc chúng sẽ canh gác em kỹ lưỡng hơn, thậm chí chúng có thể trói em lại. Không, em không muốn thế. Sau này bằng cách nào đấy, em sẽ tìm hiểu xem trại của chú Alan nằm phía nào, và nếu được tự do, em sẽ lợi dụng cơ hội tốt nhất để trốn đi.
Em thở dài, nhắm mắt lại. Em nhớ lại những ngày dễ chịu sống ở nhà chú. Bây giờ chú đang làm gì nhỉ? Liệu mẹ có đau xót quá không? Sao lâu thế mà anh Tômếch và chú thuỷ thủ trưởng không đến cứu em? Liệu có thể tìm được dấu vết của bọn cướp trên vùng núi đá hay không? Có biết bao câu hỏi như thế quay cuồng trong đầu, nên để giữ lòng tin em bèn nghĩ về những chuyện phi thường mà những người bạn thân thiết của em đã từng làm được. Họ biết cách lần theo dấu vết của những con thú chưa một ai biết đến, trong những khu rừng thăm thẳm, và bắt được chúng một cách dễ dàng, chắc chắn họ sẽ không sợ gì những khó khăn gặp phải khi đuổi theo bọn ăn cướp. Ôi, giá như Đingô, con chó trung thành và thân yêu ấy còn sống thì chắc chắn nó sẽ đưa đường cho những người bạn của Xanli vượt qua ngay cả khe núi đá ấy.
Chính vào lúc ấy, ở đâu đó trên thảo nguyên chợt vang lên tiếng hú của chó sói, rồi sau đó… Xanli lắng tai nghe. Cô bé tưởng như vừa nghe thấy tiếng sủa khàn khàn của Đingô. Có thể em nghe lầm chăng? Từ thảo nguyên lại vang lên tiếng sủa quen thuộc đến kỳ lạ. Những thanh âm trầm thấp, ban đầu hơi khàn khàn, càng về sau càng cao lên, và cuối cùng thành một tiếng hú kinh khủng. Không, đó không phải là tiếng chó sói! Xanli rất quen với tiếng hú liền liền, nghe như tiếng kêu của ma quỷ của chúng. Còn tiếng sủa mà em vừa nghe thấy chính là tiếng của con chó giống Ôxtralia.
Em hồi hộp nhỏm dậy. Bọn In-đi-an vẫn ngủ say như chết. Một lúc lâu trôi qua, Xanli đã bắt đầu nghĩ rằng có thể em nghe lầm, thì tiếng sủa khàn khàn khe khẽ lại vang lên ngay trong những đám xương rồng ở gần đấy.
Xanli nhìn quanh khu trại. Chung quanh vang lên tiếng ngáy đều đều của bọn In-đi-an. Em rời khỏi tấm choàng, rồi nhẹ bước, cẩn thận và từ từ tiếng lại phía lùm cây. Em vừa bước vào lùm cây thì lập tức có một cái bóng đầy lông lá nhảy bổ vào em. Xanli quỳ xuống, đưa hai cánh tay run rẩy ôm lấy cổ con vật yêu quý của em. Em oà lên khóc khi con vật thè cái lưỡi ram ráp chạm vào mặt em.
– Đingô thân yêu. Đingô rất thân yêu của tao! Ôi, tao sung sướng biết bao khi gặp lại mày, biết mày không bị chúng nó giết chết… – em vừa thì thầm vừa ghì chặt con vật.
Trời tối quá, không thể trông thấy gì, em chỉ dùng bàn tay vuốt dọc theo thân mình con vật, tìm những chỗ bị thương vì đòn roi của bọn In-đi-an. Tay em chạm phải một đám lông bết máu của con chó.
Thực ra, bóng đêm đã che cho Xanli khỏi thấy vóc dáng thương tâm của con chó. Đingô nom thật thảm thương. Thân thể nó hằn những làn roi ngang dọc bết đầy máu vừa khô đi. Một vết thương chạy dài từ mắt trái lên tới tận đỉnh đầu. Hai sườn nó hõm sâu vào, hẳn là từ hôm bị đánh nó chưa hề được ăn uống gì. Bọn cướp In-đi-an đi rất nhanh nên Đingô không có thì giờ tìm thức ăn. Nó chỉ kịp hớp ít nước trong những dòng suối gặp ngang đường mà thôi. Giờ đây con vật mệt mỏi nằm dài ra đất bên cạnh cô bé đang quỳ gối.
Xanli đoán rằng Đingô rất đói. Em bèn quay về trại. Bên cạnh những đống lửa đã tàn còn rất nhiều thức ăn thừa mà bọn In-đi-an để lại sau một bữa tối thịnh soạn. Em tìm ngay được mấy mẩu to-rơ-ti-la và mấy miếng thịt khô, bèn mang cả ra cho người bạn bốn chân, để ít nhất nó cũng có thể tạm qua cơn đói lòng.
Xanli nghĩ xem bọn In-đi-an sẽ nói gì nếu như chúng nhìn thấy con chó. Không, không thể để cho điều đó xảy ra! Vì nếu như Đingô đã lần được theo dấu vết của em, thì những người truy đuổi cũng có thể đang ở rất gần đây. Nếu thấy Đingô, bọn In-đi-an sẽ tăng cường cảnh giác, thậm chí chúng có thể giết chết con chó vì sợ nó sẽ dẫn đường cho những người truy đuổi đến chỗ chúng.
Nghĩ thế, Xanli thì thào ra lệnh cho con chó tránh ra thảo nguyên, để bọn In-đi-an khỏi trông thấy. Đingô ngoẹo đầu, thỉnh thoảng lại thè lưỡi liếm vào mặt cô bé. Bỗng một tên In-đi-an cựa mình. Xanli vội trở về bên đống lửa. Em ngạc nhiên và sung sướng biết bao khi thấy Đingô bước theo em mấy bước, nhưng không rời khỏi lùm cây. Nó chỉ nhô đầu ra khỏi đám xương rồng và đưa cặp mắt cảnh giác ngó nhìn bọn In-đi-ăn đang say ngủ, rồi sau đó tiến vào bụi rậm.
Xanli thở phào nhẹ nhõm.